[FONT=arial] (Các tác dụng của thưốc vitamin C hiện có trên thị trường)[/FONT]
[FONT=arial]Hiện nay là một chế phẩm bổ sung vitamin phổ biến nhất. Trong khi các nhà nghiên cứu và các chuyên gia vẫn còn đang bàn cãi về nhiều khía cạnh khác nhau của vitamin C, một điều không thể chối cãi rằng loại vitamin này đóng một vai trò hết sức quan trọng trong mọi hoạt động của cơ thể.[/FONT]
[FONT=arial]Nguồn gốc[/FONT]
[FONT=arial]Trong khi hầu hết mọi người đều nghĩ rằng vitamin C có nhiều nhất trong nước cam, chanh, quít, thì thật ra vitamin C có hàm lượng cao trong rau xanh, đặc biệt là bông cải xanh, tiêu, khoai tây, cải brussel. Vitamin C dễ dàng bị phá hủy khi tiếp xúc không khí, nên người ta khuyên nên dùng các thực phẩm rau xanh càng tươi càng tốt. Ví dụ như, một lát dưa chuột sẽ bị mất đến 41% thành phần vitamin C nếu để lâu trong 3 giờ, còn một lát dưa đỏ nếu để hở trong tủ lạnh sẽ mất 35% vitamin C trong chưa đến 24 giờ.[/FONT]
[FONT=arial]Sử dụng vitamin C cùng với bioflavonoid có thể làm tăng khả năng hấp thu, nhưng với điều kiện hàm lượng bioflavonoid trong sản phẩm phải đáng kể (khi hàm lượng bioflavonoid lớn hơn hoặc bằng hàm lượng vitamin C thì sự hấp thu của vitamin C tăng lên đáng kể). Nói chung thì, dạng đơn giản và kinh tế nhất, phù hợp cho mọi người nhất đơn giản là acid ascorbic[/FONT]
[FONT=arial]Bioflavonoids sắc tố tự nhiên cũng được tìm thấy, giống như vitamin C, trong quả cam quýt và rau. Bioflavonoids đôi khi được gọi là vitamin P. Bioflavonoids đang nói để duy trì các mao mạch máu mà truyền đạt, có công cụ trong việc ngăn ngừa bệnh tim mạch nhiều, dừng hoặc kiểm tra sự tăng trưởng của một số tế bào ác tính và bảo vệ chống lại ung thư sản xuất các chất. Bioflavonoids cũng được gọi là kháng sinh tự nhiên của cơ thể.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Các dấu hiệu thiếu hụt và triệu chứng:[/FONT]
[FONT=arial]Không như hầu hết các loài động vật khác, cơ thể người không thể tự sản xuất vitamin C. một bệnh do thiếu hụt vitamin C đã được nhiều sách vở mô tả là bệnh scorbus (scurvy). Các triệu chứng kinh điển của bệnh này gồm : chảy máu nướu răng, chậm lành vết thương, các vết thâm tím rộng trên da (mảng xuất huyết dưới da, dân gian thường gọi là “vết ma cắn”). Thêm vào đó là sự dễ bị nhiễm trùng, hysteria và trầm cảm cũng là những tiêu chuẩn chẩn đoán.[/FONT]
[FONT=arial][/FONT]
[FONT=arial][SIZE=4]Ứng dụng lâm sàng[/SIZE][/FONT]
[FONT=arial]Đã có hàng loạt nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, trên lâm sàng và trong cộng đồng chứng tỏ tính hữu ích khi sử dụng vitamin C qua rất nhiều cách: giảm tỷ lệ ung thư, tăng cường khả năng miễn dịch, bảo vệ cơ thể chống ô nhiễm và thuốc lá, thúc đẩy quá trình hàn gắn vết thương, tăng tuổi thọ, giảm nguy cơ đục thủy tinh thể. Các nghiên cứu còn cho thấy sử dụng vitamin C hữu ích cho rất nhiều tình trạng sức khỏe của cơ thể nhờ đặc tính chống oxy hóa và tăng cường khả năng miễn dịch của nó. Do đó, vitamin C là một thành phần quan trọng không thể thiếu của hầu hết các chế phẩm bổ sung dinh dưỡng và mọi chương trình dinh dưỡng khác.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Một số bệnh lý và tình trạng sức khỏe mà vitamin C hỗ trợ như:[/FONT]
[FONT=arial] Hen suyễn Xơ vữa động mạch Rối loạn miễn dịch[/FONT]
[FONT=arial] Ung thư Bệnh nấm Candida Giòn mao mạch (giảm sức bền thành mạch)[/FONT]
[FONT=arial] Đục thủy tinh thể Cảm cúm Lành vết thương[/FONT]
[FONT=arial] Loạn sản đốt sống cổ Bệnh Crohn Bệnh mạch vành[/FONT]
[FONT=arial] Đái tháo đường Chàm Mệt mỏi[/FONT]
[FONT=arial] Bệnh túi mật Viêm lợi răng Tăng nhãn áp (Glaucoma)[/FONT]
[FONT=arial] Chấn thương thể thao Viêm gan Herpes simplex[/FONT]
[FONT=arial] Herpes zoster Tăng huyết áp Phát ban[/FONT]
[FONT=arial] Vô sinh Nhiễm trùng Thoái hóa võng mạc[/FONT]
[FONT=arial] Mãn kinh Loét da Sa van 2 lá[/FONT]
[FONT=arial] Viêm xương khớp Bệnh Parkinson Bệnh viêm nha chu[/FONT]
[FONT=arial] Loét dạ dày Bệnh động mạch ngoại biên Bệnh xơ cứng rải rác (bệnh Charcot)[/FONT]
[FONT=arial] Tiền sản giật Viêm khớp dạng thấp[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Hen suyễn và các trường hợp dị ứng khác:[/FONT]
[FONT=arial]Hen suyễn thường phát triển nhiều ở trẻ em và người trẻ hơn 20 tuổi. Tỷ lệ bệnh ngày càng gia tăng, do nhiều nguyên nhân, như: tăng stress đối với hệ miễn dịch (do tăng các chất hóa học độc hại trong không khí, nước, thực phẩm,…), trẻ nhũ nhi dứt sữa sớm và ăn dặm sớm bằng thức ăn rắn, dùng nhiều gia vị trong thức ăn, thêm vào đó là các kỹ thuật lai tạo di truyền các giống cây trồng hình thành nên những loại thực phẩm có nhiều khả năng gây dị ứng.[/FONT]
[FONT=arial]Một số nghiên cứu chứng tỏ thiếu hụt vitamin C trong thực phẩm và trong máu là một yếu tố nguy cơ độc lập của hen suyễn. Con của những người nghiện thuốc lá có nguy cơ hen suyễn cao hơn những đứa trẻ khác, do thuốc lá làm cạn kiệt nguồn vitamin C và E ở phổi), và triệu chứng hen tiếp tục tiếp diễn đến tuổi trưởng thành với môi trường ngày càng ô nhiễm bởi các chất oxy hóa. Sử dụng chế phẩm bổ sung vitamin C giúp giảm nguy cơ này.[/FONT]
[FONT=arial]Tại phổi, về mặt sinh lý, vitamin C đóng vai trò chất chống oxy hóa chủ chốt trên bề mặt khí đạo, thực hiện vai trò chống đỡ và ngăn chặn các tổn thương do các chất oxy hóa nội sinh lẫn ngoại sinh, đặc biệt là Oxide Nitric.[/FONT]
[FONT=arial]Về phương diện lâm sàng, những bệnh nhân hen suyễn có nhu cầu viatmin C cao hơn những người khác trong cộng đồng. Từ năm 1973 đã có 11 nghiên cứu lâm sàng về vai trò của vitamin C trên hen suyễn. 7 trong số đó chứng tỏ vitamin C cải thiện đáng kể các thông số hô hấp và các triệu chứng suyễn.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Liều cao vitamin C hữu ích cho các bệnh nhân hen suyễn nhờ làm giảm nồng độ histamine, và tất nhiên hiệu quả tốt cho các tình trạng dị ứng khác. Nó được xem như là một chất kháng histamine tự nhiên, có nhiều lợi điểm nổi bật, bao gồm cả tính an toàn , và gần đây người ta còn phát hiện ra tính ức chế miễn dịch của Histamine. Trong giai đoạn đầu của đáp ứng miễn dịch, histamine khuếch đại đáp ứng này bằng cách làm tăng tính thấm thành mạch và tăng co cơ trơn, nhờ dó gia tăng dòng yếu tố miễn dịch vào khu vực bị viêm nhiễm. Tiếp sau đó, histamine lại ngăn chặn sự tập trung bạch cầu vào khu vực viêm trong nỗ lực ngăn chặn đáp ứng miễn dịch.[/FONT]
[FONT=arial]Vitamine C kháng histamine nhờ nhiều cơ chế. Đặc biệt nó ngăn chặn sự phóng thích histamine từ các bạch cầu và tăng cường hiệu quả giải độc của histamine. Một nghiên cứu gần đây khảo sát tác động kháng histamine của vitamin C sử dụng ngắn hạn và dài hạn và hiệu quả của nó trên chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở những người khỏe mạnh. Trong nghiên cứu dùng vitamin C dài hạn, liều 2g/ngày. Mẫu máu lúc đói lấy vào 2 tuần đầu và tuần thứ 6 lúc kết thúc cho thấy nồng độ vitamin C máu tăng cao đáng kể trong khi nồng độ histamine giảm 38%. Khả năng hóa ứng động bạch cầu trong các phản ứng viêm tăng 19%, giảm đến 30% sau khi ngưng dùng vitamin C. Tuy nhiên những thay đổi này đều có liên quan đến nồng độ histamine. Khả năng hóa ứng động bạch cầu lớn nhất khi nồng độ histamine nhỏ nhất. Đối với việc sử dụng vitamin C ngắn hạn, người ta không thấy có sự thay đổi nào về nồng độ histamine máu và khả năng hóa ứng động bạch cầu 4 giờ sau khi dùng liều vitamin C duy nhất. Do vậy nghiên cứu này khuyến cáo những người có xu hướng dễ bị dị ứng hay nhiễm trùng nên sử dụng vitamin C dài hạn qua các chế phẩm bổ sung vitamin C.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Xơ vữa động mạch, Tăng cholesterol máu, và Tăng huyết áp[/FONT]
[FONT=arial]Hàng loạt nghiên cứu trong cộng đồng đã chứng tỏ việc sử dụng chế độ dinh dưỡng giàu vitamin C làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong do nhồi máu cơ tim và đột quỵ (và nhiều nguyên nhân khác, bao gồm cả ung thư).[/FONT]
[FONT=arial]Một trong những nghiên cứu chi tiết nhất phân tích việc sử dụng vitamin C trên 11.348 người trưởng thành trong 5 năm, được chia thành 3 nhóm: (1) Nhập ít hơn 50mg Vitamin C mỗi ngày qua thực phẩm; (2) Nhập nhiều hơn 50mg/ngày (không dùng thuốc); và (3) Hơn 50mg/ngày qua thực phẩm cộng với thuốc bổ sung (tính bằng mg). Kết quả cho thấy tử suất của nhóm nhập trên 50mg/ngày thấp hơn tử suất trung bình của người trưởng thành đến 48% về các bệnh tim mạch và tử suất toàn bộ. Về mặt lâm sàng, diều này tương ứng với sự kéo dài tuổi thọ ở nam 5 – 7 năm và ở nữ 1 – 3 năm.[/FONT]
[FONT=arial]Làm cách nào vitamin C có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch? Trước tiên nó hoạt động như một chất chống oxy hóa, kế đến nó củng cố sự vững chắc cấu trúc collagen của thành động mạch, giảm nồng độ cholesterol toàn phần máu, giảm huyết áp, tăng nồng độ HDL-cholesterol, ức chế sự kết tập tiểu cầu.[/FONT]
[FONT=arial]Các tổn thương oxy hóa của LDL-cholesterol đóng vai trò trung tâm trong sự hình thành xơ vữa động mạch. Vitamin C ngăn chặn sự oxy hóa LDL hết sức hữu hiệu, ngay cà đối với người hút thuốc lá. Hơn nữa, vì vitamin C phục hồi và tái tạo vitaqmin E từ dạng bị oxy hóa trong cơ thể, nên nó tăng cường hiệu lực chống oxy hóa của vitamin E .[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Cholesterol[/FONT]
[FONT=arial]Nhiều nghiên cứu và quan sát lâm sàng cho thấy nồng độ viatmin C tỷ lệ thuận với nồng độ cholesterol toàn phần và nồng độ HDL-cholesterol máu. Một trong những nghiên cứu tiêu chuẩn nhất đã xác định nồng độ vitamin C máu càng cao thì nồng độ LDL, triglyceride càng thấp đồng thời nồng độ HDL càng cao. Lợi ích của HDL trên các bệnh lý tim mạch là rất to lớn. Cứ mỗi 0.5mg vitamin C tăng lên trong 100mL máu tương ứng với tăng HDL 14.9mg/100mL ở nữ và 2.1mg/ 100mL ở nam. Cứ tăng HDL 1% thì nguy cơ bệnh tim mạch giảm 4%. Ngay cả những người bình thường khỏe mạnh có chế độ dinh dưỡng tốt, nồng độ vitamin C máu bình thường việc cung cấp thêm vitamin C qua chế phẩm bổ sung vẫn có lợi, tuy nhiêu hiệu lực này có ngưỡng giới hạn. Ngưỡng giới hạn này vào khoảng thấp hơn 215mg/ngày cho nữ và 345mg/ ngày cho nam.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Huyết áp.[/FONT]
[FONT=arial]Các nghiên cứu lâm sàng và cộng đồng chứng tỏ nồng độ vitamin C máu tỷ lệ nghịch với huyết áp; nghĩa là càng nhập nhiều vitamin C thì huyết áp càng giảm. Hàng loạt nghiên cứu sơ bộ cho thấy hiệu quả giảm huyết áp nhẹ của vitamin C (ví dụ giảm 5mm Hg) trên các bệnh nhân tăng huyết áp trung bình.[/FONT]
[FONT=arial]Một trong những cách mà vitamin C giúp duy trì huyết áp trong giới hạn bình thường là thúc đẩy bài tiết chì. Sự phơi nhiễm chì mạn tính do ô nhiễm môi trường, bao gồm cả nước uống, có liên quan đến tăng huyết áp và tăng tử suất các bệnh tim mạch. Những vùng dân sử dụng nước mưa có nồng độ chì cao trong nước uống, và dân cư vùng này có nguy cơ cao huyết áp. Hơn nữa, nước mưa còn có nồng độ calcium và magnesium thấp – hai chất khoáng này hết sức quan trọng trong việc bảo vệ chống tăng huyết áp.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Cầu nối mạch vành[/FONT]
[FONT=arial]Trong bệnh viện thường ít sử dụng vitamin C bổ sung, mặc dù khả năng thiếu hụt vitamin C rất cao ở các bệnh nhân nhập viện. Để minh họa cho nhu cầu bổ sung vitamin C trong bệnh viện, một nghiên cứu phân tích tình trạng vitamin C trên các bệnh nhân phẫu thuật nối tắt mạch vành. Nồng độ vitamin C huyết tương tụt xuống 70% 24 giờ sau phẫu thuật và còn duy trì ở mức thấp này 2 tuần hậu phẫu. Ngược lại, nồng độ vitamin E và carotenoid không thay đổi đáng kể, có lẽ do chúng là các vitamin tan trong mỡ nên được cơ thể tích trữ lâu dài. Sự cạn kiệt nguồn dự trữ vitamin C làm suy yếu khả năng chống đỡ bệnh tật do các gốc tự do, nhiễm trùng, hàn gắn vết thương trên các bệnh nhân này. Do đó, vitamin C bổ sung là hết sức cần thiết cho các bệnh nhân trong giai đoạn hồi phục sau mổ nói chung và hậu phẫu cầu nối mạch vành nói riêng.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Ngăn ngừa ung thư[/FONT]
[FONT=arial]Vitamin C đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng trong bảo vệ cơ thể chống ung thư, bao gồm hoạt động chống oxy hóa và bảo vệ cấu trúc tế bào (gồm DNA) tránh các tổn thương. Vitamin C cũng giúp cơ thể đương đầu với ô nhiễm môi trường, tăng cường chức năng miễn dịch, ức chế sự hình thành các hợp chất sinh ung trong cơ thể.[/FONT]
[FONT=arial]Các bằng chứng dịch tễ học về vai trò bảo vệ cơ thể chống ung thư của vitamin C là không thể chối cãi. Aên nhiều vitamin C thực sự làm giảm nguy cơ của tất cả các dạng ung thư, gồm ung thư phổi, đại tràng, ung thư vú, cổ tử cung, thực quản, khoang miệng, và ung thư tụy. Điểm mấu chốt từ tất cả các nghiên cứu này là khẳng định một lần nữa mọi người cần phải sử dụng nguồn thực phẩm giàu vitamin C hay các chế phẩm bổ sung vitamin C. Hàu hết các nghiên cứu này tập trung vào khả năng ngăn ngừa ung thư của vitamin C, carotene hay những dưỡng chất tương tự trong thực phẩm mà ít chú ý đến các chế phẩm bổ sung.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Ung thư phổi[/FONT]
[FONT=arial]Trong 11 khảo sát về vai trò chống ung thư phổi của vitamin C, 9 khảo sát cho thấy giảm nguy cơ ung thư với liều cao. 5 trong số này kết quả khá rõ ràng, và bốn trong đó chứng minh rằng vitamin C hữu hiệu hơn cả beta-carotene. Gladys Block, một tác giả đi tiên phong trong phong trào sử dụng chất chống oxy hóa ngăn ngừa ung thư tại Mỹ, đã viết rằng: ”Những nghiên cứu gần đây cho thấy Vitamin C là một yếu tố bảo vệ chống ung thư phổi độc lập và hữu hiệu còn hơn cả beta-carotene như đã từng đề cập trước đây”.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Ung thư miệng, thực quản và dạ dày[/FONT]
[FONT=arial]7 trên 8 nghiên cứu về ung thư vòm miệng cho thấy ăn ít vitamin C là yếu tố nguy cơ cao. Những người ăn ít nhất vitamin C hàng ngày có nguy cơ ung thư vòm miệng cao gấp 2 lần so với người ăn nhiều nhất. Kết quả cũng tương tự trên ung thư thực quản. Trong khi đó 16/16 nghiên cứu cho thấy việc sử dụng nhiều vitamin C hàng ngày có hiệu quả đáng kể trong bảo vệ chống ung thư dạ dày. Ung thư dạ dày có liên quan mật thiết với một số hợp chất sinh ung được biết như nitrosamine. Nitrosamine sinh ra nhiều khi ăn các dạng thịt hun khói. Vitamin C ức chế đáng kể sự hình thành nitrosamine.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Ung thư vú[/FONT]
[FONT=arial]Một phân tích hồi cứu về vai trò của các yếu tố dinh dưỡng trên ung thư vú kết luận rằng “Vitamin C là một yếu tố bảo vệ hữu hiệu nhất giúp cơ thể chống lại các yếu tố nguy cơ ung thư vú”. Nồng độ vitamin C còn quan trọng hơn cả acid béo bão hòa, beta-carotene và vitamin E.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Ung thư cổ tử cung[/FONT]
[FONT=arial]Nguy cơ bị ung thư CTC tăng lên đột ngột khi lượng vitamin C nhập vào giảm sút. Phụ nữ ăn vào ít hơn 88mg vitamin C mỗi ngày có nguy cơ ung thư CTC cao gấp 4 lần so với những người ăn vào nhiều hơn. Những trường hợp loạn sản CTC (một dạng tiền ung thư) và ung thư biểu mô tại chỗ có lượng nhập và nồng độ vitamin C máu thấp hơn những phụ nữ CTC bình thường. Như vậy sự nhập vitamin C không đầy đủ là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với loạn sản CTC và ung thư biểu mô tại chỗ CTC.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Ung thư tụy[/FONT]
[FONT=arial]6 trong 7 nghiên cứu chứng tỏ nhập nhiều vitamin C giúp giảm nguy cơ mắc ung thư tụy tạng. Nguy cơ ung thư này tăng gấp 2,6 lần ở những người nhập ít hơn 70mg vitamin C mỗi ngày so với những người nhập nhiều hơn 159mg/ngày.[/FONT]
[FONT=arial][/FONT]
[FONT=arial][SIZE=4]Ung thư đại tràng[/SIZE][/FONT]
[FONT=arial]Vai trò bảo vệ của vitamin C trong ung thư đại tràng được chứng minh qua 6/8 nghiên cứu, hầu hết làm giảm nguy cơ 2 lần. Theo Viện Ung Thư Học Quốc gia Hoa Kỳ, vitamin C còn làm giảm sự hình thành các hợp chất sinh ung do vi khuẩn ở đại tràng tạo ra.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Điều trị ung thư[/FONT]
[FONT=arial]Xu hướng chung của điều trị ung thư rất khó chấp nhận việc sử dụng vitamin C và các chế phẩm bổ sung dinh dưỡng tương tự. Tuy nhiên, vấn đề trước hết là chúng ta hãy mở rộng quan đầu óc và thay đổi quan điểm, để dần dần làm mất đi những phản ứng cho rằng chế phẩm dinh dưỡng là không khoa học.[/FONT]
[FONT=arial]Năm 1976, Bác sĩ Linus Pauling, một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 với 2 lần đoạt giải Nobel, đã đưa vitamin C lên vũ đài khoa học, khi báo cáo kết quả nghiên cứu của ông cùng với Bác sĩ Ewan Cameron. Pauling và Cameron đã cho những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối sử dụng vitamin C 10g/ngày. 16 trong số 100 bệnh nhân này đã sống sót sau hơn 1 năm.[/FONT]
[FONT=arial]Tiếp sau đó, Cameron đã thực hiện một nghiên cứu tương tự trên một mẫu lớn hơn, 1826 bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. 294 bệnh nhân được dùng vitamin C liều cao (10g/ngày). 1532 bệnh nhân còn lại xem như nhóm chứng. Kết quả phân tích cho thấy những bệnh nhân được sử dụng acid ascorbic có thời gian sống thêm gấp đôi so với nhóm chứng (343 ngày so với 180ngày).[/FONT]
[FONT=arial]Nhiều nhà phê bình vẫn chưa công nhận những kết quả của Pauling và Cameron. Theo họ, các nghiên cứu này không phải là nghiên cứu mù đôi, nên kết quả không đảm bảo. Một số nghiên cứu kiểm chứng đã bác bỏ kết luận của hai ông. Dù sao đi nữa, việc sử dụng viatmin C trong ung thư là có lợi, trước hết vì nó bù đắp vào nồng độ bị thiếu hụt trên những bệnh nhân này, đồng thời nó còn làm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Đục thủy tinh thể[/FONT]
[FONT=arial]Những cá thể có chế độ dinh dưỡng giàu vitamin C và E, selenium, carotene có nguy cơ hình thành đục thủy tinh thể và thoái hóa võng mạc giảm đi rất nhiều so với những người nhập ít hơn. Bên cạnh đó, các chất chống oxy hóa này làm chậm tiến trình đục thủy tinh thể và cải thiện thị lực. Nồng độ vitamin C trong máu bình thường vào khoảng 0,5mg/100mL máu, ngược lại trong các tuyến thượng thận, tuyến yên, nồng độ vitamin C cao gấp 100 lần, còn trong gan, lách, thủy tinh thể: gấp 20 lần. Cơ thể phải sử dụng khá nhiều năng lượng để bơm vitamin C ngược gradient nồng độ từ máu vào các cơ quan này. Do đó chúng ta cần phải cung cấp nhiều vitamin C mỗi ngày nhằm nâng cao nồng độ trong máu, giảm bớt sự chênh lệch nồng độ giữa máu và các mô hoạt động.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Cảm lạnh thông thường[/FONT]
[FONT=arial]Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để khảo sát vai trò của vitamin C trên cảm cúm, đặc biệt là khả năng tăng cuờng hệ miễn dịch. Đã 20 năm trôi qua kể từ khi Linus Pauling viết Vitamin C và Cảm cúm (dựa trên quan điểm của ông và hàng loạt nghiên cứu chứng tỏ vitamin C có thể làm giảm các triệu chứng nặng lẫn thời gian nhiễm bệnh), người ta vẫn còn tranh luận về hiệu quả lâm sàng của nó.[/FONT]
[FONT=arial]Hiện người ta khuyến cáo sử dụng vitamin C cho các trường hợp nhiễm trùng cấp tính, đặc biệt là ở người lớn tuổi. Mặc dù chỉ với liều thấp, vitamin C cũng có thể làm cải thiện đáng kể các triệu chứng lâm sàng. Nên sử dụng vitamin C trên tất cả các bệnh nhân lớn tuổi nhiễm khuẩn hô hấp cấp.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Đái tháo đường[/FONT]
[FONT=arial]Vì insulin hỗ trợ sự vận chuyển vitamin C vào tế bào, nên hầu hết các bệnh nhân bệnh đái tháo đường bị thiếu vitamin C nội bào nếu không được cung cấp vitamin C liều cao cho dù có được sử dụng chế độ ăn đầy đủ vitamin C như người bình thường. Bệnh nhân đái tháo đường đơn giản cần nhiều vitamin C hơn, và vitamin C liều cao là hoàn toàn cần thiết trong điều trị bệnh đái tháo đường. Liều dùng thông thường trong trường hợp này là 1000 – 3000mg/ngày chia 2-3 lần.[/FONT]
[FONT=arial]Thiếu hụt vitamin C nội bào âm ỉ, mạn tính dẫn đến hàng loạt vấn đề trong đái tháo đường, như tăng tính thấm thành mạch, giảm sự lành vết thương, tăng cholesterol máu, suy giảm hệ thống miễn dịch. Hơn nữa, đái tháo đường làm tăng sự hình thành gốc tự do. Vitamin C giúp cơ thể kiểm soát đường, hoạt động của gốc tự do, giảm sự tích tụ sorbitol nội bào, và ức chế sự gắn kết của glucose với protein (sự glycosyl hóa). Sự tích tụ sorbitol và sự glycosyl hóa có liên quan rất nhiều đến các biến chứng của đái tháo đường, nhất là các biến chứng về mắt và thần kinh.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Sorbitol và các biến chứng đái tháo đường[/FONT]
[FONT=arial]Sorbitol là một sản phẩm phụ được hình thành trong quá trình chuyển hóa glucose dưới sự hỗ trợ của men aldose reductase. Ơ những người không bị đái tháo đường, một khi sorbitol sinh ra sẽ được tiếp tục chuyển hóa thành fructose nhờ men polyol-dehydrogenase. Sự chuyển hóa thành fructose này giúp sorbitol được tống xuất ra khỏi tế bào khi nồng độ tăng cao. Nhưng không may là những bệnh nhân đái tháo đường nồng độ đường huyết tăng cao nên sorbitol tích tụ ngày càng nhiều trong tế bào và đóng vai trò chủ yếu lên sự phát triển các biến chứng.[/FONT]
[FONT=arial]Chúng ta có thể hiểu vai trò đó thông qua việc xem xét sự liên quan giữa sorbitol và sự hình thành đục thủy tinh thể. Thủy tinh thể mặc dù không có mạch máu nuôi nhưng lại là một mô chuyển hóa tích cực và biến đổi không ngừng suốt cuộc đời. Tăng đường huyết gây tăng tích tụ sorbitol từ glucose. Vì sorbitol hầu như không thấm qua màng thủy tinh thể và thiếu men polyol-dehydrogenase nên sorbitol tích tụ với nồng độ ngày càng cao, và nồng độ này không thuyên giảm ngay cả khi glucose máu về bình thường.[/FONT]
[FONT=arial]Kết quả là nước bị kéo vào trong tế bào trong thủy tinh thể để duy trì sự cân bằng áp suất thẩm thấu. Khi nước bị kéo vào trong, tế bào phải phóng thích nhiều phân tử nhỏ như amino acid, inositol, glutathione, niacin, vitamin C, Mg và K để cân bằng áp suất thẩm thấu. Đây là những phân tử bảo vệ thể thủy tinh tránh các tổn thương, thiếu chúng thể thủy tinh trở nên nhạy cảm hơn, các sợi protein mỏng manh bị mất độ trong suốt và đục thủy tinh thể hình thành.[/FONT]
[FONT=arial]Các thuốc chuyên dùng ức chế tích tụ sorbitol thường có nhiều độc tính. Ngược lại, vitamin C hết sức an toàn và hữu hiệu trong việc giảm nồng độ sorbitol. Có thể sử dụng vitamin C liều thấp 100mg hàng ngày, nhưng thường người ta dùng 1000mg/ngày có thể bình thường hóa nồng độ sorbitol trong tế bào hồng cầu, trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi 30 ngày.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Ức chế sự Glycosyl hóa[/FONT]
[FONT=arial]Sự glycosyl hóa là sự gắn kết glucose với protein, dẫn đến những thay đổi về cấu trúc và chức năng của nhiều protein trong cơ thể. Ơû bệnh nhân đái tháo đường có sự glycosyl hóa quá mức của albumin và các protein của hồng cầu, của thể thủy tinh và của bao myelin (bao sợi thần kinh). Sự glycosyl hóa này làm biến đổi cấu trúc và chức năng của các tế bào và mô liên quan và góp phần rất lớn vào sự hình thành các biến chứng của đái tháo đường. Ví dụ, các phân tử LDL bị glycosyl hóa (có nồng độ cao trên bệnh nhân đái tháo đường) sẽ không được gắn kết với LDL receptor hoặc ngăn chặn sự tổng hợp cholesterol ở gan. Kết quả bệnh nhân đái tháo đường điển hình bị tăng cholesterol máu và tăng nguy cơ xơ vữa động mạch đáng kể.[/FONT]
[FONT=arial]May thay, vitamin C liều cao (1-3g/ngày) làm giảm đáng kể sự glycosyl hóa protein (có thể giảm 33% albumin bị glycosyl hóa).[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Giảm số lượng tinh trùng[/FONT]
[FONT=arial]Vitamin C (acid ascorbic) đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ chất liệu di truyền của tinh trùng (DNA) tránh các tổn thương. Nồng độ vitamin C trong tinh dịch cao hơn rất nhiều lần so với trong các dịch khác[/FONT]
[FONT=arial]Vitamin C giúp ngăn ngừa bệnh Gout[/FONT]
[FONT=arial]Quanh năm, chúng ta đều gặp bệnh nhân gút nằm viện. Ở bệnh nhân gút mạn tính bệnh cảnh rất nặng nề: các khớp biến dạng, vận động rất khó khăn, các khớp đau nhiều vì viêm cấp của khớp, chất lượng sống bị giảm sút, chi phí điều trị tốn kém do phải điều trị các bệnh kèm theo như rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, đái tháo đường, nhiễm khuẩn khớp, suy thận, viêm tụy... Tần suất bệnh gút gia tăng do liên quan đến tuổi thọ trung bình tăng, sự thay đổi trong cách ăn uống và sự gia tăng bệnh tăng huyết áp. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy có mối liên quan giữa tăng huyết áp và tăng nồng độ axit uric (AU) máu và nguy cơ cao về nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân gút, đặc biệt sử dụng alcool nồng độ cao. Nguy cơ bệnh mạch vành tăng ở những người mắc bệnh gút. Nghiên cứu của Eswar Krishnan trên 12.866 nam giới, theo dõi trong vòng 6,5 năm có 118 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ở nhóm bệnh nhân gút (10,5%) và 990 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ở nhóm không bị bệnh gút (8,43%).[/FONT]
[FONT=arial][/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Theo kết quả của các nhà nghiên cứu thuộc Trường đại học British Columbia ở Vancouver, Canada,được đăng tải trên tạp chí y khoa Archives of Internal Medicine, những người bị bệnh gout (thống phong) nên ăn nhiều loại trái cây giàu vitamin C để ngăn chặn sự phát triển của căn bệnh này. Dưa leo và giấm có tác dụng ngăn chặn phản ứng thoái biến chất đạm purin, đồng thời làm tăng bài tiết axit uric.[/FONT]
[FONT=arial]Đây là nghiên cứu dựa trên cuộc khảo sát với khoảng 47.000 người đàn ông. Họ đã hoàn thành bản khảo sát các câu hỏi về chế độ ăn và hàm lượng Vitamin C. Kết quả là, những người đàn ông “tiêu thụ” khoảng 500 - 999 milligrams Vitamin C một ngày sẽ giảm 17% nguy cơ phát triển bệnh gout so với những người dùng ít hơn 250 milligrams một ngày. So với những người không dùng Vitamin C, những người dùng từ 1.000 đến 1.499 milligrams một ngày giảm 34% nguy cơ bị gout và những người dùng từ 1.500 milligrams giảm 45% nguy cơ mắc bệnh.[/FONT]
[FONT=arial]Trung Tâm chuẩn về thực phẩm Anh cũng chưa đặt tiêu chuẩn giới hạn tối đa bao nhiêu Vitamin một ngày nhưng các nhà nghiên cứu tiết lộ những người bị đau dạ dày hoặc mắc các bệnh về đường ruột thích hợp với liều dùng từ 1.000 – 3.000 mg một ngày (dĩ nhiên còn phụ thuộc theo yếu tố cân nặng của người đó). Người dẫn đầu nghiên cứu, giáo sư Hyon Choi cho hay, gout là một dạng phổ biến của viêm khớp ở nam giới. Bệnh gout thực sự rất nguy hiểm chính vì vậy chúng ta cần phải xác định rõ bệnh để có những biện pháp ngăn chặn và giảm mức đau đớn do bệnh gây nên. Vitamin C được xác định có khả năng làm giảm các hàm lượng acid uric trong máu thông qua thận. Giáo sư Choi nói, nhìn chung những nghiên cứu về Vitamin C và bệnh gout là những bước tiến đầu để các nhà nghiên cứu có thể nghiên cứu sâu hơn các biện pháp phòng chống và chữa trị loại bệnh này.[/FONT]
[FONT=arial]Bệnh gout thường xảy ra ở những người đàn ông có độ tuổi từ 40 trở lên, nhưng đôi khi phụ nữ cũng mắc. Các nguyên nhân thông thường là do uống nhiều rượu, ăn nhiều các loại thực phẩm dễ tạo ra axit uric trong máu, chẳng hạn như thịt, cá, đồ biển, phomat, phủ tạng - những thức ăn sau đây có chứa nhiều chất purin: nội tạng động vật như tim, gan, óc, cật, lòng mề... động vật.[/FONT]
[FONT=arial]Các nhà nghiên cứu trên cho rằng, kết quả khảo sát của họ cho thấy vitamin C có tác dụng làm giảm lượng axit uric trong máu, do đó có thể dùng để ngăn ngừa chứng bệnh gây đau nhức này.[/FONT]
[FONT=arial]Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng vitamin C tỏ ra có hiệu quả trong việc làm giảm lượng axit uric trong máu, có lẽ bằng cách giúp cho thận dễ tái hấp thụ axit này để bài tiết qua nước tiểu, thay vì tích tụ trong các khớp xương và gây ra viêm xưng.[/FONT]
[FONT=arial]Bệnh goutte là hậu quả của sự mất cân bằng trong chuyển hóa purine. Purine có ở dạng tự nhiên trong thực phẩm, đặc biệt là thịt, sự thoái hóa purine sinh ra acide urique, bài tiết qua nước tiểu nhưng khi urique hiện diện một số lượng lớn trong cơ thể làm tăng acide urique trong máu, do cung cấp quá nhiều purine hoặc do sai lệch trong bài tiết qua thận, acide urique có thể tích tụ ở các khớp, xuất hiện những cơn đau, đột ngột, sưng, nóng, đỏ đau dữ dội tại các khớp, thường gặp nhất là ở ngón chân cái. Ngoài những triệu chứng trên nồng độ acide urique trong máu lâu ngày dẫn đến sự thành lập những tinh thể urate dưới da (tophus), ở vành tai, gần khuỷu tay, ngón tay, ngón chân.[/FONT]
[FONT=arial]Ngoài việc gây bệnh gout (gút), tình trạng tăng axit uric máu có thể gây tổn thương cho nhiều cơ quan như mạch máu, tim, mắt, màng não, cơ quan sinh dục...[/FONT]
[FONT=arial]Thường có hai nguyên nhân tăng axit uric trong máu. Một, do cơ địa bệnh nhân thận yếu - hoạt động kém, sỏi thận... sẽ dẫn đến giảm thải axit uric. Một số trường hợp do cơ thể gia tăng tổng hợp axit uric nội sinh, ở những người phần lớn là hoạt động thể lực quá mức. Hai, do chế độ dinh dưỡng - thường gặp ở những người ăn quá nhiều thịt, hải sản... đồng thời uống nhiều rượu bia làm tăng axit uric ngoại sinh. Nếu axit uric nội và ngoại sinh tăng, cộng với sự giảm thải axit uric qua đường thận thì sẽ làm tăng axit uric trong máu. Ăn bao nhiêu sẽ làm tăng axit uric còn tùy thuộc khả năng thải của thận.[/FONT]
[FONT=arial]Theo các bác sĩ, bệnh nhân bị mắc bệnh gut (một dạng bệnh kiểu như viêm khớp, xảy ra do sự tăng cao của nồng độ acid uric trong máu) nên bổ sung một lượng khoảng 10 - 40 mg acid folic (B9) có chứa trong thực phẩm mỗi ngày sẽ giúp tăng hiệu quả điều trị bệnh lên một cách đáng kể.[/FONT]
[FONT=arial]Axit uric bình thường trong huyết thanh ở nam giới là < 6 mg/dl, nữ giới là < 5 mg/dl .Nồng độ tối đa cho phép là < 8 mg/dl. Nếu vượt quá nồng độ này thì axit uric sẽ lắng đọng thành tinh thể ở trong khớp (cơ chế gây nên bệnh goutte, đau khớp) và trong thận. BN đau ở một khớp, đa số là khớp ngón chân cái, đau vào khoảng 2 - 3 giờ sáng, đau buốt dữ dội giống như ngâm trong nước đá lạnh. Ngoài ra còn có các đặc điểm khác như các đợt viêm khớp cấp, cơn đau khớp thường sưng, nóng, đỏ, đau... Đau khớp đã trở thành nỗi kinh hoàng ở những người mắc bệnh goutte. Đau khớp thường kéo dài 1-2 ngày, giảm dần sau 7-10 ngày. Bệnh tái phát nhiều lần. Thường những lần sau, thời gian đau càng kéo dài, lâu khỏi hơn, nhiều khớp bị đau hơn... Bệnh có nhiều biến chứng như biến dạng khớp, sỏi thận, suy thận...[/FONT]
[FONT=arial]Bệnh nhân cũng cần kiêng các thứ sau: tránh uống nhiều rượu bia, vì sẽ làm tăng mức acid uric trong cơ thể do rượu cản trở sự loại bỏ acid uric khỏi cơ thể; tránh uống nước ngọt soda nhiều vì thức uống này có thể làm tăng nguy cơ bị gut. Tránh tăng cân vì khi quá nặng sẽ làm cho các khớp xương phải chịu sức ép nhiều hơn và cũng làm nguy cơ bệnh gut tăng lên. Nhưng đối với người béo phì thì không nên giảm cân quá nhanh vì có thể làm tăng acid uric trong máu. Nên uống nhiều nước, vì nước giúp thải chất acid uric.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Người bệnh gút hạn chế ăn đồ chua[/FONT]
[FONT=arial]Người bệnh gút hạn chế uống các nước có tính chua như nước cam, nước chanh vì làm toan hoá nước tiểu, làm tăng nguy cơ kết tinh urate ở ống thận, làm tăng nguy cơ sỏi thận.[/FONT]
[FONT=arial]Gút là một bệnh chuyển hoá, tăng cao nồng độ axit uric trong máu (vitamin C có tác dụng làm giảm lượng axit uric trong máu). Bệnh liên quan chặt chẽ đến chế độ ăn uống. Ăn uống điều độ có thể làm giảm bệnh, có thể ngăn ngừa bệnh và ngăn ngừa bệnh tiến triển xấu.[/FONT]
[FONT=arial]Gút đã được coi là một bệnh lý rối loạn chuyển hóa purin ở người, làm tăng tổng hợp axit uric trong máu, dẫn đến viêm khớp ở ngón chân, xuất hiện các u cục ở khớp, quanh khớp, ở vành tai, có sỏi thận hoặc suy thận mãn.[/FONT]
[FONT=arial]Trên nhóm người có tăng axit uric máu, việc ăn nhiều thức ăn giàu purin sẽ làm tăng thêm tình trạng tăng axit uric máu sẵn có, thúc đẩy họ trở thành bệnh nhân gút, làm nhanh tái phát các cơn gút, khó kiểm soát bệnh và sớm trở thành gút mạn.[/FONT]
[FONT=arial]Vì purin bị biến đổi thành uric nên tránh những thực phẩm có chứa nhiều purin như: tôm cua, óc, gan, thận động vật, nước luộc thịt, trứng gà...[/FONT]
[FONT=arial]Không ăn mỡ động vật, không ăn đường. Rau quả tốt cho bệnh nhân gút là ngũ cốc, hạt, rau quả tươi, xanh. Người bệnh nên kiêng loại thực phẩm có tốc độ tăng trưởng nhanh như: măng tre, măng tây, nấm, giá vì sẽ làm tăng tốc độ tổng hợp axit uric trong cơ thể.[/FONT]
[FONT=arial]Hạn chế uống các nước có tính chua như nước cam, nước chanh vì làm toan hoá nước tiểu, làm tăng nguy cơ kết tinh urate ở ống thận, làm tăng nguy cơ sỏi thận.[/FONT]
[FONT=arial]Mặt khác, thức ăn chua có thể có các tác dụng khác như: Ăn chua quá có thể hại răng vì độ pH giảm xuống trong nước bọt, tiếp xúc với men răng, dễ đưa tới sâu răng. Người bệnh có tiền sử đau dạ dày mà ăn nhiều thức ăn chua, đặc biệt là khi đói có thể kích thích dạ dày tiết ra nhiều dịch vị không tốt, làm tổn thương dạ dày.[/FONT]
[FONT=arial]Các bệnh nhân béo phì, cao huyết áp, bệnh mạch vành... rất dễ bị gút và ngược lại, bệnh nhân gút thường mắc bệnh các bệnh béo phì, xơ vữa động mạch, rối loạn lipit máu, đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh mạch vành, vì vậy một chế độ ăn uống điều độ, tập luyện nhẹ nhàng thường xuyên sẽ hạn chế những ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ và tăng tuổi thọ.[/FONT]
[FONT=arial]Bảo vệ chống lại ánh nắng mặt trời[/FONT]
[FONT=arial]Đôi khi, nhiều người còn sử dụng vitamin C trên da để bảo vệ chống lại tia cực tím ánh nắng mặt trời, các chất ô nhiễm và mối nguy hiểm từ môi trường bên ngoài.. làm tăng khả năng chống của cơ thể theo một nghiên cứu kết hợ vitamin C, E của Đại học Munich (Đức).[/FONT]
[FONT=arial]Vai trò của vitamine C trong cơ thể ?[/FONT]
[FONT=arial]Vitamine C giúp cho việc sản xuất ra collagen, đây là một protein cần thiết cho việc hình thành và bảo vệ răng, lợi, xương, sụn, các đĩa sống (các đĩa sụn nằm giữa các đốt sống), các dây chằng, thành mạch và làn da.[/FONT]
[FONT=arial]Ngoài ra, acid này còn đóng nhiều vai trò quan trọng khác :[/FONT]
[FONT=arial]1. Giúp vết thương mau lành [/FONT]
[FONT=arial]2. Tăng sức đề kháng, giải độc và giúp vết thương chống lành. Tăng cường khả năng chống nhiễm khuẩn[/FONT]
[FONT=arial]3. Làm đẹp da, đẹp tóc,[/FONT]
[FONT=arial]4. Tăng cường miễn dịch: Giúp vết thương chóng lành, mau liền sẹo: [/FONT]
[FONT=arial]5. Ngăn ngừa ung thư:[/FONT]
[FONT=arial]6. Dọn sạch cơ thể:[/FONT]
[FONT=arial]7. Tái tạo hồng cầu nên chống lại chứng thiếu máu, và thiết thực cho thai phụ vì giúp ngừa các khiếm khuyết ở thai nhi.[/FONT]
[FONT=arial]8. Điều trị bệnh cảm lạnh hay cảm sốt, cúm[/FONT]
[FONT=arial]9. Làm giảm nguy cơ gây loãng xương[/FONT]
[FONT=arial]10. giảm stress…[/FONT]
[FONT=arial]11. giải độc cho cơ thể[/FONT]
[FONT=arial]12. chữa chứng khô mắt[/FONT]
[FONT=arial]13. chống oxy hoá tốt tức kìm hãm sự lão hóa của tế bào[/FONT]
[FONT=arial]14.Có khả năng làm giãn mạch vì vậy làm giảm nguy cơ tăng huyết áp và các bệnh tim mạch.[/FONT]
[FONT=arial]15.Giúp điều hòa lượng cholesterol trong máu[/FONT]
[FONT=arial]16.Giúp ngăn ngừa bệnh scurvy (bệnh scorbut hay bệnh hoại huyết), đặc trưng bởi tình trạng mệt mỏi, thiếu máu, sưng khớp, sưng nướu và chảy máu chân răng.[/FONT]
[FONT=arial]17.Giảm nguy cơ mắc bệnh đục thủy tinh thể - thủy tinh thể của mắt bị mờ đục làm bệnh nhân nhìn không rõ, thường do lão hóa, hoặc do một số bệnh biến dưỡng gây nên.[/FONT]
[FONT=arial]18.Có thể hạn chế hay phòng tránh các biến chứng của bệnh tiểu đường lên thận, mắt và hệ thần kinh.[/FONT]
[FONT=arial]19. Chống lại các tác dụng phụ của thuốc cortisone -dùng chữa bệnh Addison và sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến thượng thận.[/FONT]
[FONT=arial]20.Giúp hấp thu chất sắt.[/FONT]
[FONT=arial]21.Giảm hàm lượng chì - một loại chất độc trong cơ thể.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]THỰC PHẨM GIÀU VITAMIN C[/FONT]
[FONT=arial]Vitamin C xuất hiện khá phổ biến trong thực phẩm có nguồn gốc thực vật: rau ngót (185mg%), cần tây (150mg%), rau đay (77mg%), súp lơ, cà chua, su hào, mồng tơi, rau muống... Nó cũng có nhiều trong một số loại quả chín như: bưởi (95mg%), xoài (60mg%), nhãn (58mg%), đu đủ (54mg%), cam, chanh, quất, quýt...[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial] Nhu cầu hàng ngày:[/FONT]
[FONT=arial]Trẻ sơ sinh đến 3 tuổi ở vào khoảng 25-30mg mỗi ngày. Từ 4 - 18 tuổi, cơ thể có nhu cầu khoảng 30-40mg mỗi ngày. Đối với người trưởng thành, nhu cầu trung bình là 45mg/ ngày. Ở phụ nữ mang thai, nhu cầu là 55mg/ngày và phụ nữ cho con bú là 70mg/ngày (Nguồn của Tổ chức Y tế thế giới và Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc, 2002).[/FONT]
[FONT=arial]Theo khẩu phần dinh dưỡng được khuyến khích - viết tắt RDA (Recommended Dietary Allowances) thì cần vitamin C 60mg/ngày cho cả nam và nữ; Nếu phụ nữ mang thai, đang cho con bú thì cần 70 - 90mg mỗi ngày.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Thiếu vitamin C[/FONT]
[FONT=arial]Gây ra bệnh scorbut, với biểu hiện:[/FONT]
[FONT=arial]Người lớn: viêm lợi, chảy máu chân răng; tụ máu dưới màng xương, đốm xuất huyết, tăng sừng hóa ở nang lông. Nếu không điều trị có thể tử vong do chảy máu ồ ạt hoặc do thiếu máu cục bộ cơ tim.[/FONT]
[FONT=arial]Trẻ còn bú: thường do chế độ ăn nhân tạo, bị chảy máu dưới mằng xương, nhất là chi dưới; dễ chảy máu dưới da; vết thương lâu lành.[/FONT]
[FONT=arial]Nếu đang bị các chứng bệnh như viêm loét dạ dày, tá tràng, viêm ruột thì không nên dùng cam vào lúc đói và uống nước cam quá nhiều trong ngày.[/FONT]
[FONT=arial]Người nghiện thuốc lá, vận động viên, bệnh nhân trong giai đoạn hồi phục, công nhân lao động nặng nên được tiếp tế mỗi ngày với 200mg vitamin C.[/FONT]
[FONT=arial]Đối với những người đang sử dụng thuốc sắt thì vitamin C càng đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thu sắt khi uống kết hợp.[/FONT]
[FONT=arial]Khi thiếu vitamin C, [/FONT]
[FONT=arial]Da sẽ bị khô, dễ bị xuất huyết dưới da(da dễ bị bầm tím khi va chạm nhẹ). Chảy máu cam, chảy máu lợi, vết thương chậm lành.[/FONT]
[FONT=arial]Thiếu vitamin C gây ra bệnh scorbut, với biểu hiện:[/FONT]
[FONT=arial]Người lớn: viêm lợi, chảy máu chân răng; tụ máu dưới màng xương, đốm xuất huyết, tăng sừng hóa ở nang lông. Nếu không điều trị có thể tử vong do chảy máu ồ ạt hoặc do thiếu máu cục bộ cơ tim.[/FONT]
[FONT=arial]Trẻ còn bú: thường do chế độ ăn nhân tạo, bị chảy máu dưới mằng xương, nhất là chi dưới; dễ chảy máu dưới da; vết thương lâu lành.[/FONT]
[FONT=arial][FONT=arial,helvetica,sans-serif][SIZE=3][FONT=arial][/FONT][/FONT][/SIZE][/FONT]
[FONT=arial]Thừa vitamin C[/FONT]
[FONT=arial]Vitamin C tuy ít tích luỹ nhưng nếu dùng liều cao lâu ngày, có thể tạo sỏi oxalat (do dehydroascorbic chuyển thành acid oxalic), hoặc sỏi thận urat, có khi cả hai loại sỏi trên; đi lỏng, rối loạn tiêu hóa; giảm độ bền hồng cầu.[/FONT]
[FONT=arial]Dùng vitamin C liều cao kéo dài ở thai phụ gây tăng nhu cầu bất thường về vitamin C ở thai (vì vitamin C qua rau thai) dẫn đến bệnh scorbut sơm ở trẻ sơ sinh.[/FONT]
[FONT=arial]Dùng C dạng uống với liều cao trong thời gian dài sẽ làm cho cơ thể quen đi, khi không sử dụng sẽ cảm thấy mệt mỏi, rối loạn tiêu hóa như nóng rát dạ dày, tiêu chảy... hoặc hiện tượng thừa sắt, giảm sút chất lượng hồng cầu, giảm khả năng diệt khuẩn của bạch cầu... Gần đây, nhiều nghiên cứu cho thấy, dùng quá liều vitamin C sẽ làm "mất đi sự cân bằng vốn có của cơ thể", tích tụ những phân tử kép có hại, tăng nguy cơ gây ung thư, thấp khớp, xơ vữa động mạch.[/FONT]
[FONT=arial][/FONT]
[FONT=arial][SIZE=4]Đối tượng cần C:[/SIZE][/FONT]
[FONT=arial]- Người tiếp xúc nhiều trong môi trường ô nhiễm.[/FONT]
[FONT=arial]- Người hút thuốc, uống rượu bia nhiều, stress[/FONT]
[FONT=arial]- Người ko ăn đủ trái cây, rau trái tươi[/FONT]
[FONT=arial]- Người bị bệnh cảm[/FONT]
[FONT=arial]- Người bị chảy máu chân răng[/FONT]
[FONT=arial]- Người thích ăn thịt nhiều[/FONT]
[FONT=arial]- Thích ăn thức ăn nhanh[/FONT]
[FONT=arial]- Người muốn tăng sức đề kháng[/FONT]
[FONT=arial]Dùng qúa liều vitamine C có sao không?[/FONT]
[FONT=arial]Dùng quá liều vitamine C, bạn có thể bị tiêu chảy, buồn nôn, ngứa da, tiểu buốt tiểu gắt, tăng thải trừ chất đồng ra khỏi cơ thể.[/FONT]
[FONT=arial]Có nhiều bằng chứng cho thấy, hấp thu nhiều vitamine C làm tăng nguy cơ lắng đọng tại thận và gây sỏi thận. Những bệnh nhân bị dư thừa sắt (Fe) trong cơ thể như bệnh thiếu men glucose-6-phosphate dehydrogenase (men G6PD) (một bệnh di truyền, làm màng hồng cầu kém bền, hồng cầu dễ vỡ, phóng thích sắt vào trong máu) hay do những nguyên nhân khác, nên cẩn trọng khi sử dụng vitamine C vì nó có tác dụng tăng hấp thu sắt (nếu quá nhiều sắt trong cơ thể sẽ thâm nhiễm vào các cơ quan khác gây tổn thương các cơ quan trong cơ thể).[/FONT]
[FONT=arial]Liều cao có thể gây rối loạn chuyển hóa đường và axít uric gây bệnh thống phong.[/FONT]
[FONT=arial]
[/FONT]
[FONT=arial]Ngộ độc vitamine C :[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif][SIZE=3][FONT=arial]Trong phòng thí nghiệm, người