Thời trang và các định nghĩa - thời trang việt
linhcvkt > 09-16-2011, 02:34 AM
Thời trang là trang phục theo thời: là tập hợp những thói quen và thị hiếu phổ biến trong cách mặc, thịnh hành trong một không gian nhất định, vào một khoảng thời gian nhất định.
Ví dụ: Thời trang của người nữ Việt Nam thời phong kiến: áo tứ thân, khǎn mỏ quạ, thời kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, bộ quần áo bà ba, ở thời kỳ sau giải phóng hoàn toàn miền Nam: bộ sơn vin, quần ống xéo, áo sơ mi chẽn 4 ly và hiện nay: quần âu áo sơ mi và váy...
Có nhà nghiên cứu đã nói: " Một cái nhìn thoáng qua áo quần cũng có thể giúp chúng ta khám ra được cái mà các nhà sử học gọi là niên đại tương đối" bởi vì bản chất của thời trang là ở chỗ nó luôn gắn liền với quan niệm thẩm mỹ, trình độ kinh tế và vǎn hoá của một thời đại nào đó. Trang phục là tấm gương phản ánh đời sống xã hội.
Mốt là hiện tượng cái mới trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Theo nghĩa rộng, mốt là thị hiếu thẩm mỹ mới nhất đang đựơc số đông ưa chuộng. Xu hướng thẩm mỹ này xuất hiện cả trong vǎn hoá vật thể (cưới hỏi, sinh nhật, hiếu lễ...). theo nghĩa hẹp, mốt là sự thay đổi đột biến của các hình thức, kiểu cách trang phục cụ thể.
Cả mốt và thời trang đều phản ánh thói quen và thị hiếu thẩm mỹ trong cách mặc đã được cả xã hội quan tâm và chấp nhận, nhưng giữa chúng có điểm giống và khác nhau.
100 nǎm qua thời trang Việt Nam.
1900 – 1910: Nữ mặc áo dài thụng nǎm thân: áo rộng, không eo, dài đến gần mắt cá chân. áo dài vải đen dành cho người bình dân, lao động, nhà giàu thường chọn vải gấm. Nam giới hay phụ nữ khi ra đồng mặc quần đáy lá nem. Chiếc quần này có hai màu: đáy và hai ông màu màu nâu hay đen, lưng quần cao hai tấc, màu xanh hay trắng. Thanh niên còn bới tóc thì có mốt dùng một chiếc lược bằng đồi mồi bịt bạc giắt phía sau đầu. Mốt áo bà ba cũng xuất hiện trong giai đoạn này nhưng chỉ giành cho nam giới, được cả tầng lớp bình dân lẫn giàu có ưa thích tuy có thay đổi một chút về chất liệu theo địa vị xã hội. Giới trung lưu may đồ bà ba bằng lãnh Mỹ A đen tuyền, chân đi giày hàm ếch, đầu đội nón tây hiệu Flêchet, tóc vẫn còn để búi tó.
Nam giới thuộc giới trung lưu đội nón chóp và mặc áo dài đi ra đường, tay xách dù cán cong hoặc cầm gậy. Chất liệu dành cho quan lại hay tầng lớp giàu có là nhung và gấm thêu chữ phúc, chữ thọ, tay áo hơi rộng, đi giày hạ màu xanh hay đen có viền trắng, mũi vuông cong. Giới tri thức mặc áo dài xuyến đen.
1915 – 1920:
Thanh niên bắt đầu cắt tóc ngắn và mặc áo dài với quần tây trắng, đi giày tây đánh xi đen bóng.
1925:
Các cô gái trẻ mặc áo bà ba vải batiste trắng, Quần lành đen không rộng lắm và đeo kiềng vàng. Phụ nữ lớn tuổi mặc áo ba rộng hơn, bên trong còn có áo túi. Các chị thường khoác một khǎn lụa hoặc khǎn rằn, đội nón lá. vào mùa hè tay áo được cắt ngắn hơn mùa đong. ở miền Nam, mốt khǎn đóng suối Đờn (Lái Thiêu) được nhiều người ưa chuộng.
1935:
Hoạ sĩ Lê Phổ cách tân chiếc áo dài: tiện dụng và tân thời hơn. áo dài được may ôm hơn, cổ thấp hơn, chiều dài áo ngắn hơn một đoạn.
Sau áo dài Lê Phổ là áo dài Le Mur của ông Nguyễn cát Tường. Mặc dù thời đó Lê Mur đã được quảng cáo rầm rộ trên báo chí nhưng chỉ được một thiểu số phụ nữ thời thượng ủng hộ. Cho đến gần những nǎm cách mạng tháng Tám thì Le Mur thật sự bị đào thải và đi vào quên lãng.
1940:
Do ảnh hưởng của làn sóng Tây Âu, các cô gái trẻ ǎn mặc tự nhiên và dễ dãi hơn. Thanh niên từ thành thị đến nông thôn đều cắt tóc ngắn, con gái thích kiểu tóc "bombe" và dùng thêm kẹp, nơ bǎng đô hoặc uốn tóc lợn sóng. Bộ bà ba được nữ giới tiếp nhận tuy muộn nhưng lại ồ ạt hơn nhất là ở nông thôn Miền Nam.
1950:
Phụ nữ Sài Gòn thích mốt tóc ngắn "đuôi chồn", "đuôi sóc" và mặc chiếc áo dài ngắn trên gối. Sau đó là đến mốt tóc ngắn như con trai. Tạo dáng vẻ khoẻ khoắn, manh dạn và nǎng động hơn.
1954:
Chiếc áo dài đã đựoc nữ sunh mặc đến trường với kiểu tà áo rộng, eo thắt, cỏ cao và ống tay hẹp. Một số phụ nữ mặc quần tây và áo đầm hoặc các kiểu váy dài quá gối, bó hoặc xếp li…Một loại kiểu dáng áo dài mới ra đời nhưng chỉ là gán ghép và có tính vay mợn của kiểu dáng thời trang Tây Âu thời đó như tay phồng, cổ giống áo sơ mi hoặc nhún bèo, cổ tay cài khuy.
1960:
Các chất liệu mới được nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều nhất là hàng nilon, in hoa, thêu rồng, phượng… Mốt nhất thời ấy là áo dài nilon mỏng, cổ khoét sâu với quần satin. Bà Trần Lệ Xuân – vợ Ngô Đình Nhu - đã táo bạo thay đổi cổ áo dài rộng vai, cổ tròn, cổ vuông, rồi cổ trái tim… nhưng cũng chỉ tồn tại gượng gạo một thời gian rất ngắn.
1968 – 1970:
Tại Miền Nam, những người theo mốt cuồng nhiệt đã cho ra đời kiểu cổ áo bà ba tà, nút áo được cài từ trên cổ xuống đến tận eo. Thành công nhất là sự cải tiến từ tay thờng đến tay raglan mà đến nay vẫn còn được áp dụng. Đồng thời chiếc minijúyp ngắn trên gối đầu tiên xuất hiện và ngày càng ngắn hơn vào những nǎm sau đó .
1973:
Phụ nữ miền Nam lại sáng tạo ra một kiểu áo dài cực ngắn gọi là áo dài mini. Phong trào hippy trở thành trào lu của giới trẻ và xuất hiện chiếc quần jean ôm sát mặc với áo sô mỏng. Sau phong trào váy mini ladf midi (dài nửa gối), rồi maxi (dài phủ gót). Mốt quần ống loe, ống chẽn cũng được giới trẻ thời này ưa chuộng
1975 – 1985:
Thời kỳ này thời trang Việt Nam không có những thay đổi đáng kể. Thời kỳ này quần áo theo mốt của nước ngoài do hàng hoá của các nước phương Tây hoặc Đông Âu giửi về dưới dạng qùa biếu.
1988:
Một lần nữa chiếc áo dài Việt Nam lại được công nhận là biểu trưng của dân tộc Việt Nam qua cuộc thi hoa hậu áo dài do báo phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
1990 – 1999:
Đến những nǎm cuối thế kỷ, sự xuất hiện đầy sáng tạo, muôn màu muôn vẻ của áo dài và các loại y phục khác làm lĩnh vực thời trang ở nớc ta sôi động hẳn lên. Các khuynh hớng thời trang đã ồ ạt du nhập vào Việt Nam. Sự tiếp nhận nhanh nhạy của giới trẻ cùng với sự thành công của các nhà tạo mẫu trẻ tại các cuộc thi thiết kế thời trang chuyên nghiệp quốc tế đã mở ra cho thời trang Việt Nam một kỷ nguyên mới. Tuy nhiên, trong khi hội nhập, chúng ta lại dễ dàng quên đi một khía cạnh khác: đó là vǎn hoá thời trang. Thời trang cần được gạn lọc và tiếp nhận một cách cân nhắc. Sự hội nhập trong sáng tạo, có ý thức và có sự tự trọng sẽ phản ánh đựoc phong cách đặc sắc và lòng tự hào của một dân tộc đã có nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với thế giới. Đó mới là vẻ đẹp đích thực và vĩnh cửu.
+ Phái yếu:
+ Phái mạnh: Thời trang của phái mạnh tuy đơn giản nhưng theo thời gian nó cũng biến đổi không ngừng. Dù ở thời kỳ nào, thời trang giành cho đàn ông cũng luôn nhằm tạo nên những nét mạnh cho họ. Và đàn ông cũng âm thầm theo mốt. Kiểu tóc cũng khi dài khi ngắn. mà vào mỗi thập niên sự ngắn dài cũng rất káhc nhau. Chỉ riêng đờng ngôi lúc ở giữa, lúc ở bên và lúc thì không còn ngôi nữa.