Từ xưa, Đông y đã phát hiện, việc vận dụng thuốc đối với phụ nữ đang mang thai yêu cầu rất thận trọng. Nếu lười, có thể dẫn tới những tác động rất xấu, như khiến hoạt động sinh lý của cơ thể người mẹ bị rối loạn; gây rong huyết; gây động thai hoặc sảy thai; khiến thai nhi bị teo lại, làm biếng vững mạnh được; thai bị chết lưu trong bụng mẹ; khiến cho thai nhi bị kì quái, ...
Phụ nữ mang thai thường mắc nhiều bệnh về xương khớp.
Xem thêm:
đau nhức xương khớp khi mang thai
Nói theo cách khác, thuốc có thể gây tác hại trên 4 phương diện:
- Không hữu dụng đối với cơ thể người mẹ;
- Không bổ ích đối với thai nhi;
- Không hữu dụng đối với quá trình sinh sản;
- Không có lợi đối với trẻ sơ sinh.
Áp dụng thuốc khinh suất đối với thiếu phụ đang mang thai, có thể gây nên những biến chứng gây tổn thất lớn như vậy, do vậy trong "Đông dược học" có một nội dung mà mỗi người người làm nghề chữa bệnh, cũng như Người nhiễm bệnh, nên phải nắm vững, gọi là "
Dựng phụ dược kỵ"; còn gọi là "
Nhẫm thân dược kỵ". "Dựng phụ", "nhẫm thân", đều là 1 vài từ Hán Việt, chỉ người đàn bà đang mang thai; "dược kỵ" là thuốc buộc phải kiêng kỵ.
Để tiện dụng cho việc sử dụng thuốc trên lâm sàng, hiện tại thuốc bất lợi đối với thai phụ, thường được phân loại theo 1 số cách giải quyết như sau:
1. Phân loại theo chức năng của thuốc:
Nói phổ biến, những vị thuốc có tính năng thuộc các loại: "Hoạt huyết thông kinh", "phá khí hành trệ" (hành khí mạnh để tiêu ứ trệ), "nhuyễn kiên tán kết" (mềm vật rắn, tan khối tích), "công trục tuấn hạ" (tẩy, trục thủy mạnh), "hoạt lợi trọng trụy" (loại thuốc nhuận tràng, lợi tiểu có thể gây sảy thai, sa nội tạng), "tẩu soán khai khiếu" (phát tán, lan truyền tỏa nhanh, mạnh trong cơ thể), đều là vài thứ nên cấm kỵ Hình như mang thai.
Chi tiết là:
- Thuốc hoạt huyết thông kinh: Tam lăng, nga truật, hồng hoa, nhũ hương, ích dòng thảo.
- Thuốc phá khí hành trệ: Thanh bì, chỉ thực, tân lang (hạt cau), đàn hương.
- Thuốc nhuyễn kiên tán kết: Miết giáp, bối chiếc, hạ khô thảo, bán hạ, thiên nam tinh.
- Thuốc công trục tuấn hạ: Thương lục, đình lịch, nguyên hoa, khiên ngưu tử (hạt bìm bìm), đại hoàng.
- Thuốc hoạt lợi trọng trụy: Tỳ ma tử (hạt thầu dầu), đông quỳ tử, du bạch so bì, hoạt thạch, xa tiền tử (hạt mã đề), mộc thông, từ thạch, mông thạch.
- Thuốc tẩu soán khai khiếu: Xạ hương, băng phiến, tô hợp hương.
Xem thêm:
benh gout uong gi ?
2. Phân loại theo đối tượng tác dụng:
Gây tác hại đối với người mẹ hoặc bào thai.
Trong đó đại bộ phận là một số thứ thuốc gây tổn hại đối với cơ thể người mẹ.
- Thuốc gây tổn hại đối với cơ thể người mẹ, làm mất năng lực cao tiếp tục nuôi dưỡng thai nhi, khiến quá trình mang thai bị gián đoạn, bao gồm các vị: Hồng hoa, ý dĩ nhân, nguyên hoa, tam lăng, thông thảo, thường sơn, hoạt thạch, qua lâu căn, đại hoàng.
- Thuốc gây tổn hại trực tiếp đến bào thai, cản trở quá trình phát dục của thai nhi, bao gồm: Bán hạ (làm thai bị tổn thương), thân phụ đậu (làm nát thai), ngô thù du (khiến thai bị lan độc).
3. Phân chia theo hậu quả:
Thuốc có thể gây được phép vài di chứng, như sát thai (làm chết thai nhi), đọa thai (gây trụy thai), hoạt thai (gây động thai), độc thai (khiến thai bị lan truyền độc).
Vài vị thuốc cụ thể:
- Thuốc sát thai: cha đậu, thủy ngân.
- Thuốc đọa thai: Nguyên hoa, cam toại, đại kích, khiên ngưu (hạt bìm bìm), vương bất lưu hành, xuyên sơn giáp, bổ cốt chi, lưu hoàng, đào nhân.
- Thuốc hoạt thai: Xa tiền tử (hạt mã đề), đông quỳ tử, hòe thực, trạch tả.
- Thuốc gây độc thai: Uất lý nhân, thanh cao, tế tân, tân lang.
4. Phân theo cường độ:
- Thuốc cấm áp dụng, bao gồm các vị thuốc có độc tính tương đối mạnh và có dược tính mãnh liệt, có thể khiến cơ thể người mẹ và bào thai thương tổn nguy hại, khiến thai bị chết hoặc sảy thai, như thủy ngân, phê sương, ba đậu, đại kích, thương lục, lê lô, ô đầu, tích phấn, ...
- Thuốc yêu cầu thận trọng, bao gồm những vị thuốc có độc tính tương đối thấp và có dược tính tương đối hoãn hòa. Bao gồm các vị thuốc trong loại thuốc hoạt huyết hành khí, công hạ lợi thủy, nhuyễn kiên tán kết, tẩu soán trọng trụy, như hồng hoa, đào nhân, tân lang, thanh so bì, đại hoàng, trạch tả, cái lệ, khổ sâm, tế tân, ...
- Đối với loại thuốc buộc phải thận trọng khi dùng, bắt buộc theo đúng phương châm ứng dụng thuốc hữu hiệu và thích hợp. chi tiết, cần căn cứ vào bệnh tình mà cân nhắc xem có yêu cầu nên vận dụng hay lười. Nếu phải áp dụng, bắt buộc để ý "
biện chứng thi trị" thật xác thực, sử dụng thuốc đúng liều lượng và đúng phương hướng (thời gian sử dụng). một vài vị thuốc nên được bào chế và phối ngũ (phối hợp các vị thuốc trong thang thuốc) một phương pháp thích đáng, để có thể giảm thiểu tối đa một số tác hại đối với thai phụ và thai nhi. Bên cạnh đó, để đề phòng phát sinh sự cố, trừ phi không chăm chỉ dùng làm biếng được, còn nói thông thường được phép ngăn chặn sử dụng những vị thuốc mà người xưa cảnh báo là nên thận trọng. Còn đối với các vị thuốc thuộc loại cấm vận dụng, thì tuyệt đối làm biếng được áp dụng.
Trên đây mới chỉ liệt kê một số vị thuốc tương đối thông dụng. cổ truyền, trong sách "
phiên bản thảo cương mục" của Lý Thời Trân đã đề cập đến 247 vị thuốc bắt buộc dùng thận trọng hoặc cấm áp dụng khi đang mang thai. Hiện tại, khoa học còn xác định thêm lười không 1 vài vị thuốc mới, bất lợi hoặc gây tổn thất lớn đối với thai phụ. thành thử, khi đang mang thai, nếu nên vận dụng Đông dược để phục hồi hoặc làm tăng sức khoẻ hoặc ngăn ngừa căn bệnh tật, nhất định buộc phải có sự Mách nhỏ và chỉ dẫn chi tiết của lương y
Đông y.