Con người, hình ảnh thiên chúa
prince.new01 > 07-03-2011, 03:58 AM
CON NGƯỜI, HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA Hình ảnh Thiên Chúa: các con người thông hiệp nhau.
Thông hiệp và phục vụ là hai viễn ảnh chính mà nền thần học về hình ảnh Thiên Chúa đặc tâm chú ý.
Chúng ta tạm bàn đến viễn ảnh hiệp thông trong những dòng dưới đây và để lại lãnh vực phục vụ vào những bài viết tới.
Tu tưởng hiệp thông có thể được diễn tả như sau: Một Chúa Ba Ngôi là Đấng đã mạc khải đố án hiệp thông của mình trong đời sống Chúa Ba Ngôi cho các con người được dựng nên giống hình ảnh Người.
Chính trên đặc tính được giống Một Chúa Ba Ngôi căn bản nầy là nền tảng mà các con người được dựng nên có thể thông hiệp được với Ba Ngôi Thiên Chúa Chí Thánh.
Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người với bản tính thể xác và linh hồn, nam và nữ, người nầy được dựng nên cho người kia, và cả nam nữ đều mang trong bản năng mình hưóng về Chúa và hướng về nhau. Con người bị thương tích bởi tội lỗi gây nên và bởi đó cần được cứu rỗi, được tiền định để biến thành đồng dạng với Chúa Ki Tô, hình ảnh trọn hảo của Chúa Cha, trong quyền lực của Chúa Thánh Thần.
1 - Thân xác và linh hồn.
Các tạo vật con ngườiđược dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa là những chủ thể được mời gọi hiệp thông và tác động phục vụ trong vũ trụ trần thế.
Các động tác trong việc hiệp thông giữa các con người với nhau và hoạt động phục vụ có trách nhiệm của mình là những gì thoát xuất từ các khả năng - trí tuệ và tình cảm - của các con người, kể cả khả năng của thể xác.
Thực thể con người là những thực thể vật chất cùng tham dự và chia xể thế giới với những thực thể sống động khác.
Mặc nhiên trong nền thần học công giáo về hình ảnh Thiên Chúa, chân lý sâu xa cho biết rằng thế giới vật chất có được những điều kiện nhờ vào động tác chú tâm góp sức của con người, và người nầy cho người khác.
Chân lý vừa kể không phải luôn luôn được đặc tâm chú ý.
Nền thần học hiện đại đang tìm cách vượt thắng ảnh hưởng của quan niệm nhân chủng học lưỡng cực ( dualisme), chỉ đặt hình ảnh Thiên Chúa ( imago Dei ) liên quan đến lãnh vực thiêng liêng của bản thể con người. Một phần, dưới ảnh hưởng của nhân chủng học lưỡng cực, trước tiên theo quan niệm của Platon, rồi kế đến của Des Cartes, nền thần hoc trong quá khứ có khuynh hướng xem hình ảnh Thiên Chúa trong con người là đặc tính cá biệt của bản tính nhân loại, hay nói cách khác đồng nghĩa với trí óc hay linh hồn.
Một khám phá mới đặc biệt quan trọng giúp cho vượt thắng khuynh hướng vừa kể, chúng ta có thể tìm được trong quan niệm nhân chủng học Thánh Kinh, cũng như trong các yếu tố được Thánh Tôma d'Aquino tổng kết.
Thân thể , yếu tố căn bản của căn tính con người, đó là một quan niệm căn bản, mặc dầu không phải luôn luôn được các nhà thần học lưu ý đến, nhưng chúng ta có chứng cứ trong Mạc Khải Ki tô giáo.
Quan niệm nhân chủng học Thánh Kinh loại trừ hẵn nhãn quang lưỡng cực trí óc - thân xác.
Con người trong Thánh Kinh là con người toàn diện. Giữa các danh từ trong Do Thái ngữ được dùng trong Cựu Ước để đề cập đến con người, chúng ta có từ ngữ " nèfes ", có nghĩa là đời sống thực tế của một con người thực thể sống động:
- " Chúa là Thiên Chúa lấy từ bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật " ( Gen 2, 7).
- " Bất cứ người nào thuộc nhà Israel,hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, ăn bất cứ thứ huyết nào, thì ta sẽ quay mặt lại phạt kẻ ăn huyết và sẽ khai trừ ra khỏi dân nó " ( Lv 17, 2).
Huyết ( máu ) trong câu vừa kể đề cập đến thịt của súc vật và của con người, một đôi khi có ý nghĩa là thân thể, nói cách chung:
- " Còn da bò, tất cả thịt của nó, cùng với đầu, chân, lông và phân của nó, tóm lại tất cả con bò, thì tư tế sẽ đưa nó ra ngoài trại, ở một nơi thanh sạch, chỗ đổ tro và thiêu trên củi đang cháy " ( Lv 4, 11-12).
- " Dù vậy, các ngươi vẫn không chịu nghe Ta mà cứ chống Ta, thì Ta sẽ nổi cơn lôi đình chống lại các ngươi và Ta cũng sẽ sửa phạt các người gấp bảy lần vi tội lỗi các ngươi. Các ngươi sẽ ăn thịt con trai, ăn thịt con gái các ngươi " ( Lv 26,29).
Trường hợp nầy, không phải con người là kẻ có " basar " ( thân thể ), là chính là " basar ".
Trong Tân Ước, từ ngữ " sars " ( xác thịt ) có thể chỉ thể xác vật chất của con người,
- " Và để tôi khỏi tự cao tự đai, vì những mạc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác ( sars ) tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao, tự đại " ( 2 Cor 12, 7),
mà cũng có thể ám chỉ con người toàn diện của mình:
- " Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, hướng đi của Thánh Thần là sự sống và bình an. Thật vậy, hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không thể phục tùng được. Những ai bị tính xác thịt chi phối, thì không thể vừa lòng Thiên Chúa. Nhưng anh em không bị xác thịt chi phối , mà được Thánh thần chi phối, bởi vì Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trong anh em " ( Rom 8, 6-9).
Một từ ngữ Hy Lạp khác nữa, " soma "( thân xác ) ám chỉ cả tổng thể con người, nói lên thể thức hiện diện bên ngoài của con người. Ở đây cũng vậy, không phải con người là kẻ có thân thể, mà thân thể là của con người, là chinh con người.
Hiểu như vậy, chúng ta thấy quan niệm nhân chủng học Thánh Kinh cho biết khi đề cập đến con người, điều kiện tiên quyết phải được hiểu là con người tổng thể hiệp nhứt và thân thể ( thể xác, xác thịt ) là phần thiết yếu căn tính cá nhân của con người.
Trong các tín điều trung tâm điểm Ki Tô giáo, thân xác ( thể xác hay xác thịt ) được hiểu là phần nội tại của nhân vị và dự phần vào việc được sáng tạo giống hình ảnh Thiên Chúa.
Giáo lý Ki Tô giáo hoàn toàn loại trừ quan niệm lưỡng cực siêu hình học hay vũ trụ quang. Bởi vì giáo lý dạy chúng ta trong cả vũ trụ hiệp nhứt, thần linh và vật chất, con người được dụng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và con người thể hiện sự tốt lành, thiện hảo của Thiên Chúa.
Trong bối cảnh Nhâp Thể, thân thể được coi là phần nội tại của nhân vị .Phúc Âm Thánh Gioan xác nhận răng Ngôi Lời đã trở nên xác thịt ( sarx), để xác nhận rằng Chúa Giêsu có thân xác con người thực sự, chớ không phải là thân xác bóng ma.
Ngoài ra Người cứu chuôc chúng ta qua các động tác được thực hiện nơi thân xác Người. Thân xác Người được hiến dâng cho chúng ta và Máu Người đã đổ ra cho chúng ta, điều đó có nghĩa là Người đã hy sinh con người của Người để cứu chuộc chúng ta.
Và công cuộc cứu rổi của Người được thực hiện trong Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, được làm cho chúng ta thấy được và đụng chạm đến được bằng các Phép Bí Tích. Hiệu quả của các Phép Bí Tích, mặc dầu là những ơn thiêng liêng, cũng được thực hiện qua các dấu chứng vật chất thấy được và chỉ có thể đón nhận được bởi thân xác va trong thân xác con người.
Điều vừa kể cho thấy, không phải chỉ có trí nảo con người được cứu chuộc, mà cả thể xác nữa.
Thể xác của người tín hữu Chúa Ki Tô trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Và sau cùng, thân xác là phần thiết yếu của con người, đã được Giáo Hội nhấn mạnh trong tín lý phục sinh của thân thể trong ngày cánh chung. Điều đó cho thấy con người sẽ hiện hữu vĩnh viễn như là con người gồm cả thể xác và linh thiêng trọn vẹn.
Để xác nhận sự hiệp nhứt giữa thể xác và linh hồn, được Mạc Khải dạy cho, Giáo Hội định nghĩa linh hồn con người như là " forma substantialis " ( hình ảnh bản thể , cfr. Công Đồng Wien và Công Đồng Laterano V).
Tư tưởng vừa kể được Giáo Hội huấn dạy đựa trên nhân chủng học của Thánh Tôma d'Aquino, được lấy lại từ tư tưởng triết học của Aristote, nhận biết rằng thân xác và linh hồn như là hai nguyên lý vật chất và linh thiêng của một cá nhân con người.
Thật ra quan niệm vừa kể không có gì la nghịch lý với những khám phá khoa học hiện đại, theo đó thì vật chất, trong các yếu tố khởi thủy nhứt của mình chứa đựng hoàn toàn tiềm năng và không có một khuynh hướng nào để cấu kết thành vật thể. Nhưng trên bình diện vũ trụ được kiến trúc cấu tạo, trong thế giới sống động cũng như bất động, luôn luôn chúng ta có những yếu tố sơ khởi " tiềm năng " định hướng của mình.
Những chỉ thị Thánh Kinh, tín lý và triết lý vừa kể đều quy hướng xác định rằng thân thể con người dự phần vào cuộc được sáng tạo " giống hình ảnh Thiên Chúa ".
Nếu linh hồn được sáng tạo giống hình ảnh Thiên Chúa, cấu thành chất liệu " tiềm năng " để thiết định thân thể con người, thì cả nhân vị con người tổng thể là đơn vị mang hình ảnh Thiên Chúa trong tâm mức thiêng liêng cũng như thể xác.
Đó là những gì Công đồng Vatican II đặc tâm lưu ý có liên hệ với Ki Tô Luận về hình ảnh Thiên Chúa nơi con người:
- " Trên thực tế, chỉ có trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể bí nhiệm về con người có được ánh sáng (...) Chúa Ki tô ( ...) mạc khải hoàn hảo con người cho chính con người và làm cho con người biết được ơn gọi rất cao cả của mình " ( GS, n. 22).
Hợp nhứt một cách thiêng liêng và theo phương diện vật thể với Ngôi Lời Nhập Thể và vinh quang, nhứt là trong Bí Tích Thánh Thể, con người đạt đến cùng đích của mình: sự sống lại của chính thân thể mình và vinh quang bất tận, mà vào đó con người thông hiệp như là con người toàn vẹn, thể xác và linh hồn, trong niềm thông hiệp với Chúa Ba Ngôi, cùng chia xẻ với tất cả những kẻ được chúc phúc trên trời.
2 - Người nam và người nữ.
Trong Thông Điệp Familiaris consortio, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã xác nhân:
- " Với tư cách tinh thần được nhập thể, nghĩa là linh hồn thể hiện mình ra trên thân xác và thân xác được hướng dẫn bằng tinh thần bất diệt, con người được mời gọi cho tình yêu trong thực thể toàn vẹn của mình. Tình yêu thương ôm ấp cả thể xác và thể xác được làm cho tham dự vào tình yêu thiêng liêng " ( Familiaris consortio, n. 11).
Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, các con ngưòi được mời gọi vào tình yêu thương và thông hiệp.
Bởi vì ơn gọi đó được thực hiện một cách cá biệt trong mối thông hiệp sinh sản giữa người chồng và người vợ, sự khác biệt giữa người nam và người nữ là yếu tố thiết yếu để kiến tạo nên các con người, được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa.
- " Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, giống hình ảnh Thiên Chúa Người dựng nên; người nam và người nữ Người dựng nên " ( Gen 1, 27),
- " Ngày Chúa sáng tạo con người, Chúa sáng tạo ra con người giống như Thiên Chúa. Chúa sáng tạo con người có nam có nữ, Chúa ban phúc lành cho họ và đặt tên cho ho là " người ", ngày họ được sáng tạo " ( Gen 5, 1-2).
Như vậy, theo Thánh Kinh, hình ảnh Thiên Chúa đã thể hiện ngay từ lúc đầu, trong sự khác biệt giới tính.
Chúng ta có thể nói rằng dòng giống con người chỉ hiện diện như là người nam hay người nữ, bởi vì thực trạng của hoàn cảnh con người được thể hiện ra trong sự khác biệt và lưõng phái.
Hiểu như vậy, phái tinh không phải là một phương diện phụ thuộc của đặc tính con người, mà là một yếu tố cấu trúc của căn tính con người.
Mọi người chúng ta đều có cách thức của chúng ta để hiện hữu giữa trần thế, thể thức quan sát, suy luận, cảm nhận, thiết lập các mối tương giao và trao đổi với những người khác, mà họ cũng là những người được xác định bởi căn tính phái tính của họ.
Theo sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo:
- " Phái tính có ảnh hưởng trên mọi phương diện của con người, trên phương diện thể xác và tâm hồn. Phái tính đặc biệt liên hệ đến tình cảm, khả năng thương yêu và sinh nở, và, nói một cách tổng quat, ảnh hưởng đến việc đươn kết các mối tương giao thông hiệp với người khác ( n. 2332).
Phân vụ được uy trách cho phái nầy hay phái khác có thể thay đổi tùy thời gian và không gian, nhưng căn tính phái tính của con người không phải là những gì do văn hoá hay xã hội thiết định.
Phái tính là một phương thức cá biệt, qua đó mỗi cá nhân là hình ảnh Thiên Chúa.
Đặc tính cá biệt đó còn được xác quyết hơn nữa bởi công cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời.
Người đã nhận lấy trạng thái của con người với tất cả các chiều hướng phải có, bằng cách nhận lấy một phái tính, nhưng trở thành con người với cả hai ý nghĩa của từ ngữ: như là thành phần của cộng đồng nhân loại và như là một cá nhân thuộc phái nam. Mối tương quan của chúng ta với Chúa Ki Tô như vậy, được thiết định trong hai phương thức, tùy thuộc vào phái tính của con người mình và phái tính của Chúa Ki Tô.
.Ngoài ra công cuộc Nhập Thể và Phục Sinh làm trải rộng ra đến muôn đời căn tính phái tính nguyên thủy của hình ảnh Thiên Chúa.
Chúa Ki Tô Phục Sinh, giờ đây ngồi bên hữu Chúa Cha, vẫn là một người nam.
Ngoài ra chúng ta cũng có thể quan sát thấy được con người được thánh hoá và vinh quang của Mẹ Thiên Chúa, hiện nay đã được rước lên trời, cũng vẫn tiếp tục là một phụ nữ.
Trong Thư gởi các tín hữu Galati, khi thánh Phaolồ cho biết rằng trong Chúa Ki Tô mọi dị biệt sẽ được xoá bỏ, kể cả những dị biệt giữa người nam và người nữ, là ngài đang nói rằng không có bất cứ một sự khác biệt nhân loại nào có thể cản trở chúng ta tham dự vào mầu nhiệm của Chúa Ki Tô:
- " Không còn chuyện phân biết Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Chúa Ki Tô " ( Gal 3, 28).
Những khác biệt phái tính giữa người nam và người nữ, mặc dầu được thể hiện ra với những đặc tính thể xác, nhưng trên thực tế nhữn khác biệt đó vượt lên trên các tầm mức thể lý và có liên quan đến bí nhiệm của nhân vị con người.
Thánh Kinh không đề cập gi đến quan niệm cho rằng phái nam ở địa vị thượng đẳng hơn phái nữ. Mặc cho có những khác biệt, nhưng cả hai phái đều có địa vị bình đẳng như nhau. Như đó là những gì Đức Thánh Cha Gioan phaolaồ II đã viết trong Thông Điệp Familiaris consortio:
- " Trước tiên cần xác nhận mối bình đẳng về địa vị và trách nhiệm của người phụ nữ đối với nam giới. Địa vị bình đẳng đó được thể hiện trong một hình thức cá biệt trong việc hiến tặng cho nhau, người nầy cho người kia và của cả hai cho con cái, đó là hình thức hôn nhân và gia đình và ( ...) Tạo đựng nên con người " người nam và người nữ ", Thiên Chúa ban cho phẩm giá cá nhân ngang nhau cho người nam và người nữ, làm cho họ trở nên sung mãn hơn bằng các quyền bất khả nhượng và các trách nhiệm của chính con người " ( n. 22).
Người nam và người nữ được dựng nên như nhau, giống hình ảnh Thiên Chúa.
Cả hai đều được ban cho trí khôn ngoan và ý chí, có khả năng định hướng đời sống mình bằng cách hành xử tự do. Nhưng mỗi người hành xử theo phưong cách của chính phái tính mình, theo phương thức mà truyền thống Ki Tô giáo gọi là tương trợ và bổ túc cho nhau.
Các tù ngữ vừa kể, trong những thời gian gần đây đã trở thành những cách hiểu biết đầy tranh luận, tuy nhiên là những từ ngữ hữu ích để xác nhận rằng người nam và người nữ đều cần có nhau, để có thể đạt được mức trọn hảo của đời sống.
Dĩ nhiên tình cảm thân hữu khởi thủy giữa người nam và người nữ đã bị tội lỗi làm băng hoại. Qua phép lạ được thực hiện ở buổi tiệc cưới ở Cana ( Jn 2, 1ss), Chúa Giêsu cho thấy rằng Người đến để thiết lập lại hoà khí mà Thiên Chúa đã muốn khi dựng nên người nam và người nữ.
Hình ảnh Thiên Chúa mà chúng ta có thể tìm được trong bản tính con người như là con người, hình ảnh đó càng được thực hiện một cách đặc biệt trong việc thông hiệp giữa hai phái giống con người.
Mặc dầu sự hiệp nhứt đó thể hiện tinh yêu thương hoàn hảo của Thiên Chúa, truyền thống Giáo Hội luôn luôn xác nhận giá trị của đức trinh khiết và đời sống độc thân, phát huy các mối tương quan thân hữu trong sạch giữa các con người với nhau và đồng thời cũng là dấu chỉ việc thục hiện thời cánh chung của cả tình yêu được Chúa dựng nên trong tình yêu Hạnh Phúc của Chúa Ba Ngôi.
Về vấn đề vừa kể, Công Đồng Vatican II đã diễn tả những đường nét tương tợ như sự hiệp thông giữa các Ngôi Thiên Chúa, và mẫu gương mối hiệp thông đó, các thọ tạo con người được mời gọi thực hiện giữa trần thế:
- " Khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha " để cho họ trở nên một...như chúng ta là một " ( Jn 17, 21-23), Người mở ra những viễn ảnh mà trí khôn không thể hiểu được và Người gợi ý cho chúng ta là có một điều tương tợ giữa sự hiệp thông các Ngôi Thiên Chúa và sự hiệp thông của các con cái Chúa trong chân lý và tình thương " ( Gs, n. 24).
Nếu các mối đoàn kết hiệp thông giữa con người với nhau có thể được thực hiện bằng nhiều cách, nền thần học công giáo xác quyết rằng hôn nhân là phương thức thượng đẳng giữa các con người và là một trong những phương thế tốt đẹp nhứt được thể hiên giống đời sống Chúa Ba Ngôi.
Khi một người đàn ông và một người đàn bà hiệp thông thân thể và tâm hồn mình trong một thái độ hoàn toàn rộng mở và hiến dâng chính mình cho nhau, họ tạo nên một hình ảnh Thiên Chúa mới.
Sự hiệp thông của họ thành một thân thể duy nhứt, không những chỉ để đáp lại một đòi hỏi sinh lý học, mà còn đáp ứng lại ý định của Đấng Tạo Hoá hướng dẫn họ chia xẻ cho nhau niềm hạnh phúc vì mình được dựng nên giống hình ảnh Người.
Bởi đó truyền thống công giáo nói đến hôn nhân như là một con đường thượng đẳng để đi đến thánh thiện:
- " Thiên Chúa là tình yêu và sống nơi chính mình một mầu nhiệm hiệp thông và tình yêu. Dựng nên giống hình ảnh mình (...) Thiên Chúa đã ghi khắc vào bản tính nhân loại của người nam và người nữ ơn kêu gọi, và như vậy khả năng và trách nhiệm tình yêu và hiệp thông ( Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, n. 2331).
Cà Công Đồng Vatican II cũng nhấn mạnh ý nghĩa sâu đậm của hôn nhân:
- " Đôi vợ chồng Ki Tô hữu, do quyền năng của Phép Bí Tích Hôn Phối, thể hiện và tham dự vào mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu sung mãn liên hệ giữa Chúa Ki Tô và Giáo Hội ( cfr. Eph 5, 32). Họ giúp đỡ lẫn nhau để sự thánh thiện trong đời sống vợ chồng, bằng cách huấn dạy con cái " ( LG, n.11; cfr. GS, n. 48).