Ban xuất huyết dị ứng được mô tả từ những năm 1800, đây là một tình trạng nhiễm trùng động mạch dị ứng thường xảy đến sau viêm hô hấp trên. Tác giả Schoenlein là người cơ bản mô tả sự kết hợp giữa ban xuất huyết cấp và viêm khớp ở trẻ em vào năm 1837 và Henoch thì tường trình về dấu hiệu đau bụng và nhiễm khuẩn thận vào năm 1847, sau đó thì người ta kết hợp tên của hai tác giả để đề cập đến bệnh lý nêu ở trên.
benh xuat huyet da là trạng thái nhiễm khuẩn mao mạch dị ứng có liên quan đến kháng thể IgA và tác hại trên trẻ em, đặc biệt ở trẻ từ 3 - 10 tuổi. Ở Bắc bán cầu thì bệnh thường diễn ra với tháng 11 đến tháng giêng, thường gặp ở trẻ nam. Có bằng phân nửa đến hai phần ba trường hợp trẻ em bị nhiễm khuẩn đường hô hấp trên trước khi mắc phải ban xuất huyết Henoch-Schoenlein bằng 1 - 3 tuần và gần như các tình huống bệnh đều ở thể nhẹ từ dấu hiệu sốt cao trên 38 độ C nhưng có đến một phần ba bị quay lại .
Ban xuất huyết xảy đến được cho là bởi kháng thể IgA sinh sôi ra vì bạch cầu, các kháng nguyên có khả năng kích thích sản sinh nhiều IgA là với thức ăn, huyết thanh ngựa, côn trùng cắn, thuốc (ampicillin, erythromycin, penicillin, quinidine, quinine) hoặc bởi viêm (Haemophilus, Parainfluenzae, Mycoplasma, Legionella, Yersinia, Shigella, Salmonella), virút (Adenovirus, EBV, Parvovirus, Varicella), vắc-xin (tiêu chảy, thương hàn, sởi)…
Tác nhân bệnh lý
Tác nhân bệnh đa số là vì huyết nhiệt ủng trệ gặp ngoại cảm lục dâm, nhiệt bức huyết tràn ra ngoài mạch, hoặc là người mắc bệnh vốn âm hư hỏa vượng, cảm nên ngoại tà hoặc các thức ăn, thuốc gây nguy hại lạc mạch, huyết dễ chảy ra ngoài mạch sinh bệnh, Ngoài ra , ở những trường hợp do tỳ hư không thống huyết, khí hư không nhiếp huyết cũng sinh bệnh.
kết luận
phần lớn dựa vào:
1/ Tiền sử người bệnh trước đó 1-3 tuần có mắc phải bệnh đường hô hấp trên như nhiễm khuẩn họng, viêm amidan…
2/ Triệu chứng lâm sàng: hiện diện các điểm và ban xuất huyết ở 2 chân và mông, từng đám, đối xứng kèm theo đau bụng tái diễn khá nhiều lần, một số khớp sưng đau, vai trò thận có hại .
3/ kết quả kiểm tra máu: Số lượng tiểu cầu, thời kì máu đông, máu chảy đều bình thường. Thử nghiệm độ bền động mạch (+) urê, Creatinin máu tăng nhẹ.
4/ Nước tiểu protein (+), có hồng cầu, máu phân (+)
5/ Tủy đồ bình thường
một số yêu cầu về
chữa ban xuất huyết dị ứng
không có điều trị đặc hiệu cho bệnh nhiễm trùng mạch máu dị ứng, những biện pháp trị bệnh đa phần nhằm mục đích giúp đỡ và bảo tồn. Trong thời gian cấp, tất cả các người bị bệnh nên được nghỉ ngơi tại giường, để cao chân, dùng vitamin C liều cao, uống nhiều nước và bảo đảm chế độ dưỡng chất thích hợp . một số bệnh nhân chỉ có ban xuất huyết đơn thuần thường đáp ứng hiệu quả với các biện pháp bảo tồn này, ít khi cần phải áp dụng thuốc chữa trị khác. một vài chữa bệnh dấu hiệu như sử dụng thuốc chống nhiễm trùng giảm đau cho một số trường hợp có sưng đau khớp, thuốc lợi niệu (nếu người bị bệnh có suy thận), hạ huyết áp (nếu có tăng huyết áp) cũng rất cần phải thiết trong điều trị bệnh .
Mặc dù còn có các tranh cãi xung quanh nhiệm vụ của glucocorticoid (prednisolon, methylprednisolon...) trong điều trị viêm mao mạch dị ứng, nhưng khá nhiều khám phá cho thấy , việc dùng những thuốc này khiến cho giảm triệu chứng và ngăn ngừa được sự tiến triển của bệnh, đặc biệt là hậu quả thận. Glucocorticoid thường có hữu hiệu công hiệu từ một vài dấu hiệu ở da và khớp sau khi áp dụng với 24-48 giờ. Bên cạnh đó , nhóm thuốc này còn được chỉ định trong các trường hợp có đau bụng, xuất huyết tiêu hóa, hậu quả thận hoặc ở một vài bệnh nhân có đau khớp không đáp ứng từ các thuốc chống viêm giảm đau. Không chỉ vậy , theo các tìm hiểu của
Phòng khám da liễu uy tín tại hà nội việc áp dụng sớm glucocorticoid ở những người mắc bệnh chưa thể có tổn hại thận có khả năng hạn chế được sự góp mặt một vài hậu quả này. Liều khởi đầu 1-2mg/kg/ngày, giảm dần liều, giai đoạn sử dụng tùy thuộc vào đáp ứng của người mắc bệnh , đặc biệt nguy hại thận. Liều cực kì cao của glucocorticoid (500-1.000mg methylprednisolon trong 3 ngày thường xuyên ) được yêu cầu trong các tình huống nhiễm khuẩn cầu thận phát triển nhanh hoặc một số trường hợp nặng nề chưa đáp ứng từ liều thông thường.