Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN - Suối Nguồn (The Fountainhead)

Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN

Phiên bản đầy đủ: Suối Nguồn (The Fountainhead)
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Xem phiên bản đầy đủ với định dạng thích hợp.
Suối Nguồn (The Fountainhead)
Tác Giả : Ayn Rand
Thể loại : Tiểu Thuyết
Nguồn : sstruyen.com/doc-truyen/tieu-thuyet/suoi-nguon-the-fountainhead/6174.html

Đại dương vẫn bắt đầu từ những dòng suối
Một cuốn sách dày gần 1.200 trang vẫn đủ sức lôi cuốn người đọc đến trang cuối cùng, một cuốn sách đã được ra đời từ hơn nửa thế kỷ trước vẫn mang bóng dáng của tư tưởng và khát vọng của cả thế hệ sau: Tiểu thuyết Suối nguồn (The Fountainhead) của nhà văn Mỹ Ayn Rand, vừa được NXB Trẻ phát hành. Suối nguồn đã được độc giả bình chọn là tác phẩm đứng đầu bảng xếp hạng những tiểu thuyết hay nhất của thế kỷ 20.
Câu chuyện không là dòng chảy êm đềm như tên gọi, mà là một hành trình dài của tâm tưởng, của những cuộc đấu tranh giữa dòng đời khắc nghiệt để kiếm tìm và chứng minh một chân lý sống. Nhân vật chính là Howard Roark - một kiến trúc sư vào đời không có tấm bằng đại học. Anh đã bị đuổi ra khỏi trường kiến trúc chỉ vì không đồng ý thay thế chân lý bằng ý kiến của số đông người. Trong khi cuộc sống đầy rẫy những toan tính, đua chen và con người luôn phải biết cúi đầu để có thể tồn tại thì Roark lại đi ngược với dòng chảy đó.
Những tòa nhà của Howard Roark xây dựng luôn khiến người ta phải tìm đến ngắm nghía, cho dù sau đó bật ra những tiếng dè bỉu, chê bai. Suy nghĩ tồn tại trong số đông người thì không thể gọi là lập dị, vì thế chẳng ai dám tách ra khỏi cái số đông ấy để đến bên cạnh Howard Roark. Người ta hả hê khi lật đổ được Roark, nhưng lại hằn học khi không thể phủ nhận rằng Roark là một thiên tài. Bao nhiêu kiểu thiết kế của Roark đều bị coi là lập dị, “không thể chấp nhận” và bị cười cợt, phê phán một cách không thương tiếc. Số đông người lại một lần nữa đánh gục tất cả những sáng tạo của Roark.
Roark thất bại hoàn toàn trước những lối rẽ, trong khi người bạn cùng khóa của anh, Peter Keating, thì lại từng bước leo lên nấc thang thành công. Roark thất bại vì anh không biết mưu mô, thủ đoạn, cơ hội và xu nịnh như Keating - loại người vốn vẫn đầy rẫy trong xã hội. Roark đã đi một đường thẳng nhưng con đường ấy quá hẹp, nhiều chông gai. Có lúc anh đã phải sống trong sự nghèo túng, chờ đợi hợp đồng thiết kế nhỏ giọt vào văn phòng, anh chấp nhận cả việc trở thành một công nhân khai thác mỏ chỉ vì không muốn bất kỳ ai sai khiến và làm thiên lệch những sáng tạo của mình.
Người ta không thể sống vì cái lý tưởng cao đẹp ảo vọng nào đó mà không cần đến tiền bạc. Thế nhưng với Roark thì khác. Khi con người đã sống cho lý tưởng, niềm đam mê và cái khát vọng được là mình và khẳng định mình, thì mọi đua chen, lợi lộc hay danh phận, tiền bạc cũng chỉ là vô nghĩa.
Roark mang một ý chí kiên định và một khát vọng tuổi trẻ mãnh liệt: Nghĩ và làm theo chân lý của mình. Điều đó là “một thách thức với một thứ gì đó quá lớn và quá đen tối”. Nhưng nếu mang đến tận cùng sự đau đớn này thì ta sẽ chiến thắng, “chiến thắng cho cái-đáng-phải-chiến-thắng, cho cái đã đẩy thế giới này dịch chuyển nhưng lại không bao giờ được công nhận”.
Howard Roark đã “chịu đựng đến tận cùng nỗi đau”, để rồi cuối cùng anh đã chiến thắng. Một người đã bị búa rìu dư luận lên án vì những kiểu kiến trúc “khác người”, “bỏ đi” cuối cùng đã đứng trên giàn giáo chỉ huy một công trình kiến trúc vĩ đại nhất nước Mỹ. “Ở đó, chỉ còn đại dương, bầu trời và dáng hình của Howard Roark”.
Cuộc sống này không có ngõ cụt, chỉ có những con đường dẫn đến thành công. Giống như mọi dòng chảy đều có mạch ngầm và đại dương vẫn phải bắt đầu từ những dòng suối. Bước vào một ngõ hẹp không có nghĩa là thất bại, mà quan trọng là ta đủ bản lĩnh để nhìn thấy những bước chân mình.



 

Howard Roak cười vang.

Anh đứng trần truồng trên một mỏm đá. Hồ nước nằm sâu dưới chân anh. Phía trên mặt nước tĩnh lặng, những khối đá granit sừng sững vươn thẳng lên trời. Dường như mặt nước nằm bất động trong khi các khối đá cứ từ dưới nước vươn lên cao. Những khối đá mang sự bất động vẫn thấy ở một trận chiến khi vũ khí hai bên xô vào nhau; trong khoảnh khắc ấy, mọi thứ chững lại trong một trạng thái tĩnh còn sôi sục hơn mọi chuyển động. Những phiến đá lấp lánh, sũng ánh mặt trời.

Hồ nước bên dưới chỉ còn như một vòng thép mỏng cắt đôi các khối đá. Những tảng đá cứ thế cắt xuyên xuống dưới mặt nước sâu, không hề thay đổi. Chúng bắt đầu với bầu trời trên cao rồi lại kết thúc với bầu trời khác phía dưới mặt nước. Như thế, cả thế giới trở nên lơ lửng trong không trung – một hòn đảo bồng bềnh trôi trong hư không và chỉ được neo vào bàn chân của người đang đứng trên mỏm đá.

Cơ thể anh tựa vào bầu trời. Đấy là một cơ thể gồm toàn đường thẳng và góc nhọn, mỗi một đường uốn đều bị bẻ vỡ thành những mặt phẳng. Anh đứng đó, bất động, hai tay buông dọc hai bên sườn, lòng bàn tay mở. Anh cảm thấy bả vai mình căng lên; anh cảm thấy rõ đường lượn trên cổ và máu dồn nặng xuống hai bàn tay. Anh cảm thấy gió ở sau lưng, luồn qua cái hốc lõm ở gáy. Gió thổi tóc anh vẫy trên nền trời. Đó là một mái tóc không vàng cũng không đỏ, mà chính xác là màu vỏ cam chín.

Anh cười vào cái điều đã xảy ra với anh vào sáng hôm đó và vào những thứ sắp đến.

Anh biết những ngày sắp tới sẽ khó khăn. Sẽ có những câu hỏi phải được trả lời và những kế hoạch cần được chuẩn bị. Anh biết anh nên suy nghĩ về chúng. Anh cũng biết là anh sẽ không nghĩ, vì mọi thứ đối với anh đã hoàn toàn rõ ràng, vì kế hoạch đó đã được chuẩn bị từ lâu, và vì anh muốn cười.

Anh cố thử cân nhắc. Nhưng rồi anh lại quên. Anh đang nhìn vào những khối đá granit.

Anh không cười nữa khi mắt anh chững lại trong nhận thức về mặt đất xung quanh. Khuôn mặt anh giống như một quy luật của tự nhiên – một thứ mà người ta không thể chất vấn, thay đổi hoặc van xin. Đó là một khuôn mặt với xương gò má cao, nhô lên trên hai hõm má gầy, trũng; đôi mắt xám, lạnh và kiên định; cái miệng khinh khỉnh, mím chặt – miệng của một tên đao phủ hoặc một vị thánh.

Anh nhìn những khối đá granit. Chúng sẽ được cắt để làm thành những bức tường. Anh nhìn một cái cây. Nó sẽ được xẻ lấy gỗ làm xà nhà. Anh nhìn một vệt gỉ sắt trên đá và nghĩ đến quặng sắt dưới lòng đất. Chúng sẽ được nấu chảy và luyện thành những trụ sắt vươn thẳng lên trời.

Những tảng đá này – anh nghĩ – chúng nằm đây cho ta; chúng chờ đợi mũi khoan, thuốc nổ và hiệu lệnh của ta; chúng chờ được cắt, xẻ, nghiền và tái sinh; chúng mong ngóng cái hình hài mà bàn tay ta sẽ mang lại cho chúng.

Sau đó anh lắc đầu vì anh nhớ đến buổi sáng hôm đó và nhớ ra rằng có rất nhiều việc phải làm. Anh bước đến mỏm đá, giơ cao hai tay và lặn vào bầu trời bên dưới.

Anh bơi thẳng qua mặt hồ để đến bờ bên kia. Anh tiến đến tảng đá nơi anh để quần áo của mình. Anh nhìn quanh mình một cách luyến tiếc. Trong suốt ba năm kể từ khi anh đến sống ở Stanton, đây là chỗ thư giãn duy nhất của anh: anh đến đây bất kỳ lúc nào anh có được một giờ nghỉ ngơi vốn rất hiếm hoi. Anh đến để bơi, để nghỉ, để nghĩ, để được một mình và để được sống. Trong sự tự do mới của mình, điều đầu tiên mà anh muốn làm là tới đây, vì anh biết rằng đây sẽ là lần cuối cùng anh đến. Buổi sáng hôm đó anh đã bị đuổi khỏi khoa Kiến trúc của Học viện Công nghệ Stanton.

Anh mặc quần áo lên người: một chiếc quần bò cũ, đôi xăng-đan, cái áo sơmi cộc tay hầu như không còn khuy. Anh nhảy xuống con đường hẹp giữa những tảng đá, bước xuống con đường mòn chạy xuyên qua một triền đồi phủ đầy cỏ xanh, rồi ra con đường cái bên dưới.

Anh bước nhanh, cử động thư thái và trễ nải. Anh đi bộ dọc theo đường cái, dưới ánh mặt trời. Phía xa, thị trấn Stanton nằm trải dài dọc theo bờ biển Massachusetts, một thị trấn nhỏ làm nền cho viên ngọc của nó – học viện (Stanton[1]) nổi tiếng trên ngọn đồi xa xa.

Thị trấn Stanton bắt đầu với một bãi rác. Một cái gò chôn chất thải xám xịt nổi lên trên mặt cỏ. Nó nhả những làn khói yếu ớt. Vỏ hộp thiếc loang loáng phản chiếu ánh nắng mặt trời. Con đường chạy ngang qua những ngôi nhà đầu tiên dẫn đến nhà thờ. Nhà thờ là một tượng đài kiểu Gothic với những tấm ván lợp sơn màu xanh da trời nhạt. Nó có những trụ tường bằng gỗ đồ sộ mà chẳng để đỡ cái gì cả. Nó có những cửa sổ kính màu với những mẫu trang trí nặng nề làm giả chất liệu đá. Nó mở ra con phố dài, hai bên là những bãi cỏ hẹp đầy phô trương. Phía sau những bãi cỏ là những khối gỗ bị tra tấn và biến thành đủ mọi hình thù: chúng bị vặn xoắn thành các đầu hồi nhà, các tháp canh, các cửa sổ mái; chúng bị bóp phình ra thành những hàng hiên; chúng bị đè nặng dưới những mái nhà dốc, kềnh càng. Những rèm cửa màu trắng bay phất phơ ở các cửa sổ. Một thùng rác bên cạnh cửa hông bị lật úp xuống. Một con chó Nhật già ngồi trên cái đệm chùi chân trước bậc cửa, miệng nhỏ đầy nước dãi. Một dãy tã trẻ con bay phấp phới trong gió giữa những hàng cột của một hiên nhà.

Mọi người quay nhìn Howard Roark khi anh đi ngang qua. Một số vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm theo anh với một sự phẫn nộ mà họ đột ngột cảm thấy. Họ không thể giải thích được sự phẫn nộ này: nó là một thứ bản năng bị sự hiện diện của anh đánh thức. Howard Roark thì không nhìn thấy bất kỳ ai. Đối với anh, các đường phố đều trống trơn. Anh đã có thể trần truồng đi bộ trên đường mà chẳng ngại ngần.

Anh đi cắt ngang qua trung tâm thị trấn Stanton. Đó là một thảm cỏ xanh rộng với các cửa hiệu bao quanh. Cửa sổ của những cửa hiệu này trưng bày những tấm áp phích mới với dòng chữ: LỄ BẾ GIẢNG KHÓA 22! CHÚC KHÓA 22 MAY MẮN! Chiều hôm đó, khóa 22 của Học viện Công nghệ Stanton tổ chức lễ bế giảng.

Roark rẽ ngoặt vào một phố nhỏ; ở cuối dãy nhà dài, trên một cái gò nhỏ nằm cạnh một lạch nước xanh là nhà của bà Keating. Anh đã ở trọ tại căn nhà này trong ba năm qua.

Bà Keating đang đứng ở hiên trước. Bà đang cho cặp hoàng yến ăn trong một cái lồng chim được treo trên thanh rào chắn. Bàn tay mập và ngắn của bà chững lại khi bà nhìn thấy anh. Bà nhìn anh với ánh mắt tò mò. Bà cố kéo đôi môi để gương mặt bà thể hiện một sự cảm thông thích hợp; nhưng nỗ lực của bà chỉ dừng lại ở việc tỏ ra bà đã không phải cố gắng.

Anh đi qua hiên trước mà không nhận ra bà. Bà ngăn anh lại.

“Cậu Roark!”

“Vâng?”

“Cậu Roark, tôi lấy làm tiếc về chuyện...” bà ngập ngừng, “- về chuyện xảy ra sáng nay.”

“Chuyện gì ạ?” anh hỏi.

“Chuyện cậu bị đuổi khỏi Học viện. Thật khó mà nói hết là tôi thấy tiếc cho cậu thế nào. Tôi chỉ muốn cậu biết rằng tôi rất thông cảm với cậu.”

Anh đứng nhìn bà. Bà biết rằng anh không hề nhìn bà. Không, bà nghĩ, nói thế cũng không đúng. Cậu ta luôn nhìn thẳng vào người đối diện, và đôi mắt chết tiệt của cậu ta không bao giờ bỏ sót một thứ gì; có điều... cậu ta luôn làm cho người đối diện cảm thấy họ không tồn tại.

Howard vẫn đứng nhìn. Anh không trả lời.

“Nhưng điều mà tôi muốn nói là,” bà tiếp tục, “nếu một người nào đó phải chịu đau khổ trong thế giới này, thì đó là do lỗi của chính người đó mà thôi. Tất nhiên, giờ thì cậu sẽ phải từ bỏ nghề kiến trúc sư, có phải vậy không? Nhưng mà một thanh niên luôn có thể kiếm sống bằng nghề nhân viên văn phòng, hay nghề bán hàng hay một nghề nào đó.”

Anh quay người bước đi.

“À, cậu Roark!” – bà gọi anh.

“Vâng?”

“Ông Trưởng khoa gọi điện cho cậu lúc cậu ra ngoài.”

Bà mong nhìn thấy một biểu hiện cảm xúc nào đó của anh, dù chỉ một lần; nhìn thấy anh biểu hiện cảm xúc cũng tương đương với nhìn thấy anh suy sụp. Bà không biết cái gì ở anh làm cho bà luôn mong được nhìn thấy anh bị suy sụp.

“Vâng?” anh hỏi bà.

“Ông Trưởng khoa” bà nhắc lại với giọng kém tự tin, cố gắng tạo lại trọng lượng cho câu nói của mình. “Chính là ông Trưởng khoa, thông qua thư ký của ông ta.”

“Thì sao ạ?”

“Cô ta nhờ tôi nói với cậu là ông Trưởng khoa muốn gặp cậu lập tức, khi nào cậu về nhà.”

“Cảm ơn bác.”

“Cậu nghĩ giờ thì ông ta muốn gì?”

“Cháu không biết.”

Anh đã nói: “Cháu không biết.” Nhưng bà đã nghe rất rõ: “Cháu không quan tâm.”

Bà nhìn chằm chằm vào anh với vẻ hoài nghi.

“Tiện thể” bà nói, “hôm nay Petey[2]sẽ tốt nghiệp.” Giọng của bà không để lộ bất kỳ ngụ ý nào.

“Hôm nay ạ? À, vâng.”

“Hôm nay là một ngày tuyệt vời đối với tôi. Khi tôi nghĩ đến chuyện tôi đã phải tằn tiện và khổ sở đến mức nào để có thể cho thằng bé đến trường. Không phải là tôi đang phàn nàn đâu. Tôi không phải là loại người hay kêu ca. Petey là đứa bé có tài.”

Bà căng người lên. Cơ thể thấp mập của bà bị bó chặt trong những nếp gấp được hồ cứng của cái váy sợi bông khiến cho bao nhiêu mỡ dường như phòi hết ra ở cổ tay và cổ chân bà.

“Nhưng tất nhiên là,” bà nói nhanh, đầy hứng khởi về chủ đề yêu thích của mình, “Tôi không phải là người thích khoe khoang. Có những bà mẹ may mắn và có những người khác thì không được vậy. Ai xứng đáng thế nào thì được như thế. Đấy rồi cậu cứ theo dõi thằng Petey mà xem. Tôi không phải kiểu người thích ép con trai mình chết vì làm việc; và tôi sẽ cảm tạ Chúa nếu như Chúa cho nó bất cứ thành công nhỏ nào trong sự nghiệp. Nhưng nếu thằng bé đó không trở thành kiến trúc sư nổi tiếng nhất của cái Liên bang Hoa Kỳ này, thì mẹ của nó sẽ muốn biết lý do tại sao!”

Anh dợm bước đi.

“Nhưng mà tôi đang làm gì thế này; lại cứ nói chuyện tầm phào với cậu” – bà nói một cách hào hứng. “Cậu phải khẩn trương lên; thay quần áo rồi chạy đến trường đi. Ông Trưởng khoa đang chờ cậu.”

Bà đứng nhìn anh qua cái cửa lưới, lặng lẽ theo dõi dáng người gầy guộc của anh di chuyển ngang qua căn phòng khách được sắp xếp ngăn nắp đến mức cứng nhắc. Anh luôn làm cho bà thấy không thoải mái trong ngôi nhà: một cảm giác e ngại mơ hồ, như thể bà luôn chờ anh đột ngột đu người từ đâu xuống, đập tan những cái bàn uống cà phê, những lọ hoa Trung Quốc và những bức ảnh đóng khung của mình. Anh chưa từng biểu lộ xu hướng ấy. Nhưng bà vẫn thấp thỏm chờ đợi mà không biết tại sao.

Roark đi lên cầu thang về phòng mình. Đó là một căn phòng lớn, trống rỗng. Một lớp sơn trắng sạch sẽ làm căn phòng sáng lên. Bà Keating chưa bao giờ có cảm giác Roark thực sự sống ở đây. Anh không hề bổ sung thêm bất kỳ vật dụng nào ngoài những đồ đạc tối cần thiết mà bà trang bị cho căn phòng; không tranh ảnh, không đồ trang trí, không dấu vết ấm áp nào của bàn tay con người. Anh không đem vào phòng bất kỳ thứ gì ngoại trừ quần áo và các bản vẽ: chỉ có một vài bộ quần áo và quá nhiều bản vẽ; chúng được chất cao ngất trong góc phòng. Đôi khi bà nghĩ rằng các bản vẽ, chứ không phải một con người, đang sống ở đó.

Roark tiến về phía những bản vẽ; chúng là những thứ đầu tiên phải đóng gói. Anh cầm một trong số những bản vẽ đó lên, rồi bản tiếp theo, rồi thêm một bản nữa. Anh đứng nhìn những tấm giấy lớn.

Chúng là phác thảo những tòa nhà chưa từng tồn tại trên bề mặt trái đất. Chúng như những ngôi nhà đầu tiên được xây dựng bởi người đàn ông lần đầu tiên sinh ra trên mặt đất, người chưa từng biết tới bất cứ tòa nhà nào xây dựng trước đó. Không có gì để nói về những tòa nhà này, ngoại trừ việc cấu trúc của chúng chắc chắn phải là như thế. Không phải một kiến trúc sư nào đó đã ngồi nghĩ về chúng, cân nhắc một cách tỉ mẩn, chắp nối những cửa chính, cửa sổ và cột nhà theo những ý nghĩ nảy ra bất chợt trong đầu anh ta hoặc theo những gì anh ta học từ sách vở. Trái lại, những ngôi nhà như mọc lên từ lòng đất và từ một sức mạnh sống nào đó: chúng hoàn thiện và không thể thay đổi được. Dĩ nhiên bàn tay đã vẽ những đường chì sắc nét kia vẫn còn phải học hỏi nhiều. Nhưng không có một đường chì nào là thừa thãi, cũng như không có một mặt phẳng cần thiết nào bị thiếu. Các cấu trúc trông chân phương và giản đơn; cho đến khi người ta nhìn chúng thật kỹ và nhận ra quá trình lao động, sự phức tạp về phương pháp, và sự tập trung tư tưởng mà người vẽ chúng đã phải có trước khi anh ta đạt tới sự giản đơn này. Mọi chi tiết trong các bản vẽ đều phá luật. Các tòa nhà không theo kiến trúc Cổ điển, không theo kiến trúc Gothic, mà cũng chẳng theo kiến trúc Phục hưng. Chúng là kiến trúc Howard Roark.

Anh dừng lại ngắm một phác thảo. Nó là bản vẽ mà anh chưa bao giờ thấy hài lòng. Anh đã thiết kế nó như một bài tập mà anh tự đặt ra cho chính mình, ngoài các bài tập ở trường; anh thường làm như thế này khi phát hiện ra một địa điểm nào đó và nghĩ xem miếng đất ấy sẽ phải có một tòa nhà như thế nào. Anh đã mất hàng đêm nghiên cứu bản phác thảo này, băn khoăn không biết mình đã bỏ qua cái gì. Bây giờ khi nhìn nó, anh nhận ra cái lỗi mà mình mắc phải.

Anh vung mạnh tay để trải bản phác thảo lên trên mặt bàn. Anh cúi người xuống và vạch những đường thẳng cắt ngang bản vẽ gọn gàng của mình. Thỉnh thoảng anh dừng lại để nhìn; các đầu ngón tay anh ấn lên trang giấy như thể bàn tay anh đang bám vào tòa nhà. Bàn tay anh có những ngón dài, những mạch máu to khỏe, khớp và xương cổ tay trồi hẳn lên.

Một tiếng sau anh nghe thấy tiếng gõ cửa.

“Mời vào!” anh cáu kỉnh nói, không hề ngừng vẽ.

“Cậu Roark!”, bà Keating ngạc nhiên nhìn anh từ ngưỡng cửa. “Quỷ tha ma bắt, cậu đang làm gì thế?”

Anh quay lại nhìn bà, cố nhớ xem bà là ai.

“Thế còn ông Trưởng khoa?”, bà than vãn. “Ông Trưởng khoa đang chờ cậu.”

“À,” Roark bừng tỉnh. “À, vâng. Cháu quên mất.”

“Cậu... quên mất?”

“Vâng.” Có một chút ngạc nhiên trong giọng nói của anh: ngạc nhiên trước sự ngạc nhiên của bà.

“Thế đấy, giờ thì tôi chỉ có thể nói là” – bà nghẹn lời – “nhân nào quả nấy. Đáng đời cậu lắm. Bốn rưỡi là lễ bế giảng bắt đầu; giờ thì làm sao ông Trưởng khoa có thời gian mà gặp cậu?”

“Cháu sẽ đi ngay lập tức, bác Keating.”

Bà hành động không chỉ vì sự tò mò; mà còn vì nỗi sợ hãi mơ hồ rằng hội đồng khoa sẽ hủy bỏ quyết định đuổi học với Roark.

Roark đi vào phòng tắm ở cuối hành lang; bà quan sát anh rửa tay, vuốt mái tóc thẳng và mềm của mình cho có vẻ trật tự. Anh lại bước ra. Bà chỉ nhận ra rằng anh sắp đi khi anh đã bước tới cầu thang.

“Cậu Roark!” bà há hốc miệng và chỉ vào bộ quần áo của anh. “Cậu không định ăn mặc thế này mà đi đấy chứ?”

“Sao lại không ạ?”

“Nhưng đấy là ông Trưởng khoa của cậu!”

“Cựu Trưởng khoa của cháu, bác Keating ạ.”

Bà nghĩ, quỷ tha ma bắt, cậu ta nói như thể là cậu ta vui mừng về điều đó.


Viện Công nghệ Stanton nằm trên một ngọn đồi. Những bức tường có lỗ châu mai của nó đứng như một chiếc vương miện nổi lên trên thành phố trải rộng phía dưới. Học viện trông như một pháo đài thời Trung cổ với một nhà thờ kiểu Gothic mọc ra từ lưng chừng. Công trình này sẽ là một pháo đài hoàn hảo – giả sử như một học viện thế này có lúc cần biến thành pháo đài. Nó có những bức tường gạch kiên cố và một vài ô trống đủ rộng cho lính gác. Nó có các chiến lũy cho các cung thủ đứng nấp và những tháp canh ở các góc của nó có thể dùng làm nơi đổ dầu sôi xuống đầu những kẻ tấn công pháo đài. Nhà thờ nổi lên trên pháo đài như một đường viền tráng lệ, một sự bảo vệ mỏng manh trước hai kẻ thù khổng lồ: ánh sáng và không khí.

Văn phòng Trưởng khoa trông như một nhà nguyện; tràn ngập một thứ ánh sáng nhờ nhờ chiếu xuống từ một cửa sổ kính màu cao. Cái ánh sáng nhờ nhờ ấy phải đi xuyên qua những bức trướng vẽ các vị thánh kiên nghị – tất cả đều trong tư thế khoanh tay. Hai luồng sáng nhỏ màu đỏ và tím chiếu thẳng vào hai hình đầu thú đắp nổi ở hai bên góc cái lò sưởi chưa bao giờ được sử dụng. Một luồng sáng màu xanh lá cây chiếu thẳng vào bức tranh đền Parthenon[3] được treo ngay phía trên lò sưởi.

Khi Roark bước vào văn phòng, anh thấy bóng dáng ông Trưởng khoa hiện ra mờ mờ phía sau cái bàn làm việc được chạm trổ như một cái cửa sổ xưng tội[4]. Ông Trưởng khoa là một người thấp, phệ với những khối thịt chảy xệ được cố che giấu bằng một vẻ nghiêm nghị cứng nhắc.

“À, phải, Roark,” ông mỉm cười. “Anh ngồi đi.”

Roark ngồi xuống. Ông Trưởng khoa đan các ngón tay trước bụng, chờ đợi những lời cầu xin. Nhưng chẳng có lời cầu xin nào cả. Ông hắng giọng.

“Tôi thấy không cần phải nói rằng tôi rất tiếc vì sự việc không may sáng nay,” ông bắt đầu, “tôi chắc anh biết là tôi thực sự quan tâm tới quyền lợi của anh.”

“Hoàn toàn không cần đâu ạ,” Roark nói.

Ông Trưởng khoa nhìn anh hồ nghi nhưng vẫn tiếp tục nói.

“Khỏi cần phải nói, tôi không bỏ phiếu chống lại anh. Tôi bỏ phiếu trắng. Nhưng có lẽ anh sẽ vui mừng nếu biết rằng có một nhóm nhỏ kiên quyết bảo vệ anh tại cuộc họp khoa. Một nhóm nhỏ nhưng rất kiên quyết. Ông giáo sư kỹ thuật kết cấu của anh đã liều chết tranh đấu cho anh. Ông giáo sư toán cũng thế. Tiếc là những người cảm thấy mình có trách nhiệm phải bỏ phiếu đuổi học anh lại nhiều hơn đáng kể so với số còn lại. Giáo sư Peterkin, người phản biện thiết kế, thậm chí đặt vấn đề khá gay gắt. Ông ấy dọa chúng tôi là sẽ từ chức nếu không đuổi học anh. Anh thấy đấy, anh thực sự đã làm cho giáo sư Peterkin rất tức giận.”

“Em biết.” Roark trả lời.

“Đấy, vấn đề là chỗ đấy. Tôi đang nói về thái độ của anh đối với môn thiết kế kiến trúc. Anh không bao giờ chú trọng đúng mức ôn học. Thế mà anh đã học rất xuất sắc các môn kỹ thuật. Tất nhiên, không ai phủ nhận tầm quan trọng của môn kỹ thuật kết cấu đối với một kiến trúc sư tương lai, nhưng tại sao lại phải thái quá như thế? Tại sao lại lơ là mặt nghệ thuật và cảm hứng nghề nghiệp để tập trung vào những môn học tính toán, kỹ thuật và khô khan như vậy? Anh định trở thành một kiến trúc sư chứ có phải là một kỹ sư xây dựng đâu.”

“Có lẽ điều này là thừa, phải không ạ?” Roark hỏi. “Mọi việc đã qua rồi. Chúng ta đâu cần tranh luận về việc em chọn học gì.”

“Roark, tôi đang cố giúp anh. Anh phải công bằng về việc này. Không thể nói là anh đã không được cảnh báo rất nhiều lần trước khi chuyện này xảy ra.”

“Em đã được cảnh báo.”

Ông Trưởng khoa cựa mình trên ghế. Roark làm ông cảm thấy không thoải mái. Ánh mắt của Roark nhìn thẳng vào ông một cách lịch sự. Cậu ta nhìn thế chẳng có gì sai – ông Trưởng khoa nghĩ – thực ra còn đúng mực là đằng khác, thậm chí rất đúng mực; chỉ có điều... cứ như thể ta không hề có mặt ở đây vậy.

“Đối với mọi bài tập mà anh được giao,” ông Trưởng khoa tiếp tục, “mọi đề án mà anh phải thiết kế – anh đã làm gì với chúng nào? Anh xử lý chúng theo kiểu – ừm, tôi không thể gọi nó là một phong cách – theo kiểu kỳ quặc của anh. Nó đi ngược với mọi nguyên tắc mà chúng tôi đã cố dạy anh, ngược với tất cả những tiền lệ và truyền thống đã được công nhận của nghệ thuật. Anh có thể nghĩ anh sáng tác theo kiểu mà người ta gọi là chủ nghĩa hiện đại, nhưng thậm chí cũng không phải như vậy. Nếu anh không phiền... nó... nó hoàn toàn điên rồ.”

“Em không phiền.”

“Khi người ta giao cho anh các đề án mà anh được tự do lựa chọn phong cách thì anh biến chúng thành những thử nghiệm mạo hiểm của anh – ừm, thật lòng mà nói, các giáo sư đã cho anh qua vì họ cũng chẳng biết phải đánh giá những thứ đó thế nào. Nhưng, khi anh được giao một bài tập thiết kế theo phong cách truyền thống... thiết kế một nhà nguyện kiểu Tudor hoặc một nhà hát opera kiểu Pháp – và anh lại biến nó thành một cái gì đó trông như vô vàn những cái hộp chồng lên nhau một cách vô nghĩa – thì, nói cho tôi nghe xem, anh nghĩ đấy là một bài thi hay là sự chống đối?”

“Đó là sự chống đối.” Roark nói.

“Vì nghĩ đến thành tích học tập xuất sắc của anh ở các môn khác, chúng tôi đã muốn cho anh một cơ hội. Nhưng khi anh nộp cái này” – ông Trưởng khoa nện nắm tay xuống một tờ giấy trải rộng trước mặt – “cái này mà anh dám nộp làm bài thi cuối năm về biệt thự Phục hưng thì, chàng trai ơi, thật sự là không thể chấp nhận được nữa.”

Tờ giấy đó có một hình vẽ – một ngôi nhà bằng kính và bê tông. Ở góc tờ giấy có một chữ ký sắc nét và góc cạnh: Howard Roark.

“Anh hy vọng là chúng tôi sẽ cho anh đỗ bằng cái này ư?”

“Em không hy vọng.”

“Trong chuyện này, anh đã không cho chúng tôi một lựa chọn nào khác. Tất nhiên, bây giờ anh có thể oán trách chúng tôi, nhưng...”

“Em không hề cảm thấy gì”, Roark khẽ trả lời. “Em nợ thầy một lời xin lỗi. Em thường không mặc kệ mọi chuyện xảy ra với em. Lần này em đã phạm sai lầm. Đáng lẽ em không nên đợi thầy tống cổ em. Em nên rời trường từ lâu rồi mới phải.”

“Nào, nào, đừng nản chí. Đó không phải là một thái độ đúng đắn. Nhất là vì tôi sắp nói cho anh biết một việc.”

Ông Trưởng khoa mỉm cười và ngả người về phía trước một cách bí hiểm. Ông tận hưởng cảm giác sắp ban phát một ân huệ.

“Đây mới là mục đích thật sự của buổi nói chuyện này. Tôi muốn cho anh biết càng sớm càng tốt. Tôi không muốn để anh chán nản. Là thế này, đích thân tôi đã lựa lời đề cập chuyện này với thầy Hiệu trưởng, mặc dù ông ấy rất cáu, nhưng... anh lưu ý nhé, ông ấy chưa hứa hẹn gì đâu, nhưng... tình trạng bây giờ là như thế này: bây giờ, vì anh đã nhận ra vấn đề nghiêm trọng đến mức nào, nếu anh tạm nghỉ học một năm, để nghỉ ngơi, để suy ngẫm về những cái đã qua – để, có lẽ chúng ta có thể dùng từ “trưởng thành”, nhỉ – thì có thể chúng tôi sẽ nhận anh trở lại trường. Anh lưu ý là tôi không hề hứa hẹn chắc chắn điều gì cả – những cái này hoàn toàn không chính thức – làm thế này là hết sức bất thường; nhưng khi xem xét toàn bộ sự việc và xét đến kết quả học tập xuất sắc của anh, có lẽ cơ hội của anh khá cao.”

Roark mỉm cười. Đó không phải là nụ cười sung sướng mà cũng chẳng phải là nụ cười biết ơn. Đó là một nụ cười giản dị, dễ dàng; một nụ cười lạ lùng.

“Em nghĩ là thầy không hiểu ý em” Roark nói. “Điều gì làm thầy nghĩ là em muốn quay lại trường?”

“Hả?”

“Em sẽ không quay lại trường. Em chẳng còn gì để học ở đây nữa.”

“Tôi không hiểu anh.” – giọng ông Trưởng khoa đanh lại.

“Có gì để giải thích đâu nhỉ? Thầy không cần phải quan tâm nữa đâu.”

“Anh sẽ phải giải thích cho tôi biết!”

“Nếu thầy muốn vậy. Em muốn trở thành một kiến trúc sư, chứ không phải một nhà khảo cổ học. Em thấy việc thiết kế các biệt thự kiểu Phục hưng là hoàn toàn vô nghĩa. Tại sao phải học thiết kế chúng, khi mà em sẽ chẳng bao giờ xây dựng chúng?”

“Chàng trai thân mến của tôi ơi, phong cách vĩ đại của thời kỳ Phục hưng còn lâu mới chết. Những ngôi nhà theo phong cách đó vẫn đang được xây dựng hàng ngày đấy.”

“Đúng, chúng đang được xây dựng. Và sẽ còn được xây dựng. Nhưng không phải bởi em.”

“Thôi nào, đừng có trẻ con.”

“Em đến đây để học cách xây nhà. Khi em được giao một đề án, thì điều đó có nghĩa là em phải học cách giải quyết đề án đó giống hệt như em sẽ giải quyết một công trình thực sự trong tương lai. Em thiết kế theo cách mà em sẽ thực sự xây nó. Em đã học tất cả những gì em có thể học ở đây – từ những môn học kết cấu mà thầy đã không đồng tình. Thêm một năm vẽ bưu thiếp Ý sẽ chẳng đem lại ích lợi gì cho em cả.”

Một giờ trước đây ông Trưởng khoa đã muốn buổi nói chuyện diễn tiến một cách yên ả nhất có thể. Giờ thì ông ước gì Roark bộc lộ cảm xúc nào đó; thật không bình thường khi cậu ta im lặng một cách thản nhiên đến thế trong hoàn cảnh này.

“Anh định nói với tôi là anh nghiêm túc nghĩ đến việc xây nhà theo cách đó, khi mà và nếu như anh trở thành một kiến trúc sư?”

“Đúng vậy.”

“Anh bạn thân mến, ai sẽ cho phép anh?”

“Đó không phải là vấn đề. Vấn đề là ai cấm được em?”

“Xem này, đây là chuyện nghiêm túc. Tôi tiếc là tôi đã không có một cuộc nói chuyện dài và nghiêm túc với anh sớm hơn. Tôi biết, tôi biết, tôi biết, đừng ngắt lời tôi, anh đã thấy một hay hai tòa nhà theo trường phái hiện đại và chúng đã cho anh những ý tưởng. Nhưng anh có nhận ra rằng cái gọi là trường phái hiện đại ấy chỉ là một thứ trào lưu nhất thời? Anh phải cố mà hiểu – và cái này thì tất cả những nhà chuyên môn đã chứng minh – rằng mọi cái đẹp trong kiến trúc đều đã được phát hiện rồi. Mỗi phong cách thiết kế của quá khứ là một mỏ vàng. Chúng ta chỉ có thể lựa chọn từ những gì các nhà thiết kế vĩ đại đã nghĩ ra. Chúng ta là ai mà dám đòi cải tiến? Chúng ta chỉ có thể cố mà bắt chước – một cách trân trọng – mà thôi.”

“Tại sao?” Howard Roark hỏi.

Không, ông Trưởng khoa nghĩ, không, cậu ta chỉ nói mỗi từ đó; “tại sao” là một từ hoàn toàn bình thường; cậu ta không hề dọa mình.

“Điều đó quá hiển nhiên!” Ông Trưởng khoa nói.

“Đây,” Roark nói từ tốn và chỉ qua cửa sổ. “Thầy có nhìn thấy trường học và thị trấn này không? Thầy có thấy có bao nhiêu người đang đi lại và sinh sống ở đó không? Thực lòng, em không hề quan tâm đến việc một hay là tất cả bọn họ nghĩ gì về kiến trúc – hay về bất kỳ vấn đề nào khác. Thế thì tại sao em phải coi trọng những gì mà tổ tiên họ nghĩ về kiến trúc?”

“Vì đó là truyền thống thiêng liêng của chúng ta.”

“Tại sao?”

“Vì Chúa, sao anh lại có thể ngây thơ thế nhỉ?”

“Nhưng em không hiểu. Tại sao thầy cứ muốn em nghĩ rằng đây là một công trình kiến trúc vĩ đại?” Roark chỉ vào bức tranh đền Parthenon.

“Đó là đền Parthenon!”, ông Trưởng khoa nói.

“Phải, chính là nó.”

“Tôi không có thời gian để lãng phí vào những câu hỏi ngốc nghếch.”

“Thôi được rồi.” Roark đứng dậy, anh cầm một cái thước dài ở trên bàn và tiến về phía bức tranh. “Em có thể nói với thầy cái này lố bịch thế nào không?”

“Đấy là đền Parthenon!” Ông Trưởng khoa nói.

“Chính thế, quỷ tha ma bắt, chính là đền Parthenon khốn kiếp!”

Cây thước đập vào mặt kính phủ ngoài bức tranh.

“Thầy nhìn xem,” Roark nói. “Những đường rãnh nổi tiếng trên những cái trụ nổi tiếng – chúng ở đó để làm gì? Để che giấu những khớp gỗ – khi những cái trụ còn được làm bằng gỗ; nhưng những cái trụ này thì đâu có làm bằng gỗ, chúng được làm bằng cẩm thạch. Những nét chìm ba, chúng là gì vậy? Gỗ. Những cái rầm gỗ – khi con người bắt đầu dựng những cái lán gỗ, họ cần phải ghép gỗ thành những nét chìm ba như vậy. Những người Hy Lạp của thầy dùng đá cẩm thạch nhưng họ lại đi sao chép kiến trúc xây bằng gỗ chỉ vì những người khác đã từng làm như thế. Rồi những kiến trúc sư Phục hưng mà thầy ngưỡng mộ lại tiếp tục sao chép những bản sao đá cẩm thạch của kiến trúc gỗ trong khi người Phục hưng dùng vữa. Bây giờ lại đến lượt chúng ta, chúng ta làm những bản sao trên thép và bê tông từ những bản sao trên đá cẩm thạch vốn bắt chước từ gỗ. Tại sao?”

Ông Trưởng khoa nhìn anh đầy tò mò. Có cái gì đó làm ông hoang mang; không phải bản thân những lời của Roark mà là cách anh nói.

“Các quy tắc ư?” Roark nói. “Quy tắc của em là thế này: những cái có thể làm với chất liệu này thì không được làm với chất liệu khác. Không có hai chất liệu nào giống hệt nhau. Không có hai địa điểm nào trên trái đất này giống hệt nhau. Không có hai tòa nhà nào có cùng mục đích như nhau. Mà mục đích, địa điểm, nguyên liệu lại quyết định hình khối. Một tòa nhà không thể hợp lý hoặc đẹp đẽ trừ khi nó được thiết kế từ một ý tưởng xuyên suốt; và ý tưởng đó sẽ chi phối mọi chi tiết. Một tòa nhà là một thực thể sống, giống như một con người. Đức hạnh của một tòa nhà là phải tuân thủ những nguyên lý của chính nó, tuân thủ triết lý xuyên suốt của nó, và phải phục vụ mục đích của chính nó. Một con người không vay mượn các bộ phận cơ thể anh ta. Một tòa nhà không vay mượn những mảng miếng linh hồn của nó. Người xây ngôi nhà phải cho nó một linh hồn và phải cho làm mọi bức tường, cửa sổ và cầu thang thể hiện được cái linh hồn ấy.”

“Nhưng tất cả những hình thức thể hiện thích hợp đã được phát hiện ra từ rất lâu rồi.”

“Thể hiện – nhưng thể hiện cái gì? Đền Parthenon không có cùng mục đích sử dụng như những tổ tiên bằng gỗ của nó. Một sân bay không cùng mục đích với đền Parthenon. Mọi cấu trúc đều có mục đích riêng của nó. Mỗi con người tự tạo ý nghĩa, phong cách và mục đích cuộc sống của anh ta. Tại sao lại quan trọng hóa những cái mà người khác đã làm? Tại sao một thứ lại trở nên thiêng liêng chỉ bởi vì nó không phải do ta nghĩ ra? Tại sao bất kỳ người nào và tất cả mọi người đều đúng – miễn nó không phải là ý tưởng của bản thân ta? Tại sao số lượng người lại có thể thay thế cho nội dung của chân lý? Tại sao chân lý được xác định chỉ hoàn toàn bằng các phép tính số học – và chỉ bằng cách bổ sung thêm vào nó? Tại sao mọi thứ bị bóp nặn để phù hợp với những thứ khác? Phải có lý do nào đó chứ? Em không biết. Em chưa bao giờ biết. Em muốn hiểu rõ điều này.”

“Vì Chúa,” ông Trưởng khoa thốt lên. “Ngồi xuống!... Thế, tốt hơn rồi... Anh làm ơn bỏ cái thước đó xuống được không?... Cảm ơn anh... Giờ anh hãy nghe tôi nói. Không ai phủ nhận tầm quan trọng của kỹ thuật hiện đại đối với một kiến trúc sư. Chúng ta phải học cách ứng dụng vẻ đẹp của quá khứ vào nhu cầu hiện tại. Tiếng nói của quá khứ là tiếng nói của quần chúng. Không có gì trong kiến trúc lại chỉ do một người sáng tạo ra cả. Quá trình sáng tạo phù hợp là một quá trình chậm chạp, dần dần, vô danh và tập thể mà mỗi người hợp tác với tất cả những người khác và đặt các tiêu chuẩn cá nhân mình xuống dưới tiêu chuẩn của số đông.”

“Nhưng thầy thấy đấy,” Roark nói khẽ, “Em có, xem nào, cứ cho là sáu mươi năm để sống. Hầu hết thời gian đó là dành cho làm việc. Em đã lựa chọn công việc mà em muốn làm. Nếu em không tìm thấy niềm vui trong công việc thì em chỉ đang tự kết án sáu mươi năm hành xác cho chính mình. Và em chỉ có thể tìm thấy niềm vui nếu em làm việc của mình theo cách tốt nhất có thể đối với em. Nhưng nói ‘cách tốt nhất’ tức là nói đến các tiêu chuẩn – và em tự đặt ra các tiêu chuẩn cho riêng mình. Em chẳng kế thừa cái gì cả. Em không đứng ở điểm cuối của bất cứ truyền thống nào. Em có thể đứng ở điểm khởi đầu của một truyền thống.”

“Anh bao nhiêu tuổi rồi?” ông Trưởng khoa hỏi.

“Hai mươi hai.” Roark trả lời.

“Có thể tha thứ được.” ông Trưởng khoa nói; ông có vẻ nhẹ người. “Rồi anh sẽ thoát ra khỏi những ý nghĩ đó.”

Ông mỉm cười. “Các tiêu chuẩn cũ đã tồn tại hàng nghìn năm và không ai có khả năng cải tiến chúng. Những người theo chủ nghĩa hiện đại của anh là cái gì? Một đám chạy theo mốt, những kẻ thích phô trương và đang cố gắng thu hút sự chú ý. Anh có theo dõi sự nghiệp của họ không? Anh có thể nêu tên bất kỳ ai trong số họ mà được công nhận vĩnh viễn không? Hãy nhìn Henry Cameron. Một người vĩ đại, một kiến trúc sư hàng đầu cách đây hai mươi năm. Bây giờ ông ta thế nào? May lắm thì mỗi năm có một hợp đồng sửa ga-ra ô-tô. Một kẻ vô công rồi nghề và một tên nát rượu, một kẻ...”

“Chúng ta sẽ không bàn về Henry Cameron.”

“Ồ? Anh quen ông ta à?”

“Không. Nhưng em đã xem những tòa nhà ông ấy thiết kế.”

“Và anh thấy chúng...”

“Em đã nói là chúng ta sẽ không bàn về Henry Cameron.”

“Tốt thôi. Anh phải biết rằng tôi đang cho phép anh rất nhiều... chúng ta có thể gọi là... quyền? Tôi không có thói quen nói chuyện với một sinh viên có cách cư xử như anh. Tuy nhiên, tôi quan tâm đến việc phải ngăn ngừa trước, nếu có thể, cái có vẻ như là một thảm kịch, cái khả năng một thanh niên với khả năng thiên bẩm rõ ràng như anh lại đang cố tình phá hỏng đời mình.”

Ông Trưởng khoa tự hỏi không biết vì sao ông đã hứa với ông giáo sư toán là sẽ làm tất cả những gì có thể vì chàng trai này. Chỉ vì ông ấy đã nói rằng: “Đây,” và chỉ vào đồ án của Roark, “là một người vĩ đại.” Một người vĩ đại – ông Trưởng khoa nghĩ – hoặc là một tên tội phạm. Ông Trưởng khoa cau mày. Ông không thích cả hai loại người này.

Ông nghĩ đến những gì mà ông được nghe về quá khứ của Roark. Cha của Roark từng là một công nhân luyện thép đâu đó ở tại Ohio và chết đã lâu. Hồ sơ nhập học của anh không đề cập đến bất kỳ người thân nào khác. Khi được hỏi về điều này, Roark đã trả lời tỉnh bơ: “Em không nghĩ là em có bất kỳ người thân nào. Có thể em có. Em không biết.” Roark dường như rất ngạc nhiên khi người ta cho rằng anh nên quan tâm đến vấn đề này. Anh đã không kết bạn hoặc tìm kiếm bất kỳ một người bạn nào ở trường. Anh từ chối tham gia hội nam sinh đại học. Anh đã làm theo ý mình suốt thời trung học và suốt cả ba năm tại Học viện này. Anh đã lao động chân tay trong ngành xây dựng từ thủa nhỏ: thợ nề, thợ ống nước, công nhân thép, bất kỳ việc gì mà anh có thể tìm được, đi từ thị trấn nhỏ này đến thị trấn khác theo hướng đông, rồi đến các thành phố lớn. Trong kỳ nghỉ hè năm ngoái, ông Trưởng khoa đã thấy anh đang bắt các đinh tán nung đỏ ở một tòa nhà chọc trời đang xây dựng ở Boston; thân hình cao gầy của anh như bơi trong bộ quần áo bảo hộ lao động rộng thùng thình đầy dầu mỡ, chỉ có đôi mắt là chăm chú và cánh tay phải nhịp nhàng lăn về phía trước một cách chuyên nghiệp, như không phải nỗ lực gì, để bắt cái khối lửa nóng rực đang bay, đúng vào lúc mà dường như cái đinh nóng sắp tuột khỏi cái xô đón và lao thẳng vào mặt anh.

“Nghe này, Roark,” ông Trưởng khoa nói nhẹ nhàng. “Anh đã làm việc vất vả để có thể theo học. Anh chỉ còn một năm nữa thôi. Có một số thứ quan trọng cần cân nhắc, đặc biệt là đối với một thanh niên ở hoàn cảnh của anh. Anh phải nghĩ một cách thực tế về sự nghiệp kiến trúc sư. Một kiến trúc sư không thể tự coi mình là cái đích cuối cùng. Anh ta chỉ là một bộ phận nhỏ của một xã hội rộng lớn. Hợp tác là một khái niệm sống còn đối với thế giới hiện đại của chúng ta và đặc biệt là đối với nghề nghiệp của một kiến trúc sư. Anh đã bao giờ nghĩ đến những khách hàng tiềm năng của anh chưa?”

“Rồi ạ,” Roark trả lời.

“Khách hàng,” ông Trưởng khoa nói tiếp. “Khách hàng. Trên tất cả mọi thứ, anh hãy nghĩ đến khách hàng. Họ là người sẽ sống trong ngôi nhà mà anh xây dựng. Mục đích duy nhất của anh là phục vụ họ. Anh phải khao khát đưa ra những hình mẫu nghệ thuật phù hợp với mong muốn của khách hàng. Tôi nói thế có phải không nhỉ?”

“Tất nhiên, em có thể nói rằng em phải khao khát xây dựng cho khách hàng của em những ngôi nhà tiện nghi nhất, hợp lý nhất, đẹp đẽ nhất có thể xây dựng được. Em có thể nói rằng em phải cố gắng bán cho họ cái tốt nhất mà em có và cũng dạy cho họ biết cái gì là tốt nhất. Em có thể nói điều này, nhưng em sẽ không nói. Vì em không định xây để phục vụ hoặc giúp đỡ bất kỳ ai. Em không định xây để có khách hàng. Em định có khách hàng để có thể xây.”

“Thế anh định áp đặt ý tưởng của anh lên họ như thế nào?”

“Em không định áp đặt hoặc bị áp đặt. Những người muốn ý tưởng của em sẽ tìm đến em.”

Lúc này, ông Trưởng khoa chợt hiểu cái gì đã làm ông hoang mang về cách cư xử của Roark.

“Anh biết không,” ông nói, “những lời nói của anh sẽ thuyết phục hơn nếu như khi nói, anh tỏ ra quan tâm tới việc tôi có đồng ý với anh hay không.”

“Đúng thế,” Roark nói “Em không quan tâm liệu thầy có đồng ý với em hay không.”

Anh nói điều này đơn giản đến mức câu nói không có vẻ xúc phạm; nó như thể một lời tuyên bố về một thực tế mà lần đầu tiên anh để ý và nhận ra.

“Anh không quan tâm đến suy nghĩ của người khác – điều đó có thể hiểu được. Nhưng chẳng lẽ anh cũng không quan tâm đến việc làm cho người khác đồng ý với anh.”

“Không.”

“Nhưng, điều đó... điều đó thật kinh khủng.”

“Kinh khủng? Có thể. Em không biết.”

“Tôi rất mừng vì cuộc nói chuyện hôm nay,” ông Trưởng khoa đột ngột nói to. “Nó đã giải thoát lương tâm tôi. Tôi tin là – như những người khác cũng đã nói trong cuộc họp – kiến trúc không phải là nghề dành cho anh. Tôi đã cố gắng giúp anh. Giờ thì tôi nhất trí với Hội đồng. Anh không nên được khuyến khích. Anh thật nguy hiểm.”

“Đối với ai cơ ạ?” Roark hỏi.

Nhưng ông Trưởng khoa đã đứng dậy, ám chỉ rằng cuộc nói chuyện đã kết thúc.

Roark rời khỏi phòng. Anh bước những bước chậm rãi dọc theo các sảnh dài, xuống cầu thang đi ra ngoài vườn cỏ phía dưới. Anh đã gặp nhiều người như ông Trưởng khoa; anh đã không bao giờ hiểu nổi họ. Anh chỉ biết rằng có một sự khác biệt cơ bản nào đó giữa hành động của anh và của họ. Từ lâu, anh đã thôi không băn khoăn về điều này. Nhưng anh đã luôn tìm kiếm ý tưởng chủ đạo của các tòa nhà và anh tìm kiếm động lực chủ đạo của con người. Anh biết động lực các hành vi của mình; nhưng anh lại không thể phát hiện ra động lực ở người khác. Anh không quan tâm. Anh chưa từng học cách suy nghĩ về người khác. Nhưng thỉnh thoảng anh thấy băn khoăn cái gì đã làm họ trở thành người như vậy. Anh lại băn khoăn khi nghĩ đến ông Trưởng khoa. Hẳn phải có một bí mật quan trọng nằm đâu đó trong vấn đề này. Một nguyên tắc mà anh phải khám phá.

Nhưng anh dừng lại. Anh nhìn thấy hoàng hôn chựng lại trong chốc lát trước khi nhạt dần trên tảng đá vôi xám của một đường gân tường chạy dọc theo bức tường gạch của tòa nhà Học viện. Anh quên con người, quên ông Trưởng khoa và nguyên tắc đằng sau ông ta mà anh muốn khám phá. Anh chỉ nghĩ đến việc tảng đá trông tuyệt vời thế nào dưới ánh sáng nhạt dần và việc anh đã có thể làm gì với tảng đá đó.

Anh nghĩ đến một tờ giấy rộng và anh nhìn thấy, nổi lên trên tờ giấy, những bức tường trần trụi bằng đá vôi xám với những mảng kính dài hấp thụ ánh sáng rực rỡ của bầu trời vào trong các lớp học. Ở góc của tấm giấy có một chữ ký sắc nét, góc cạnh – HOWARD ROARK.

[1] Chữ thêm cho rõ nghĩa. (NHĐ)

 

[2] Petey: cách gọi thân mật tên "Peter". Người Mỹ thường có cách gọi thân mật những người thân bằng cách đổi tên họ đi; ví dụ như William thành Bill, Catherine thành Kate, Kate thành Katie,...vv...

[3] Đền Parthenon thờ Nữ thần Athena, là công trình nổi tiếng nhất của kiến trúc Hy Lạp cổ đại. (NHĐ)

[4] Ở các nhà thờ, thường có một phòng xưng tội cho các con chiên. Phòng này có một cửa sổ chạm trổ cầu kỳ, người xưng tội và cha nhận tội hầu như không thể nhìn rõ mặt nhau. (NHĐ)

Suối Nguồn (The Fountainhead)
Chương 02 part 1

[SIZE="3"]

 

"Kiến trúc, các bạn thân mến của tôi, là một nghệ thuật vĩ đại dựa trên hai nguyên tắc cơ bản: Vẻ đẹp và Tiện ích. Nói một cách rộng hơn, chúng thật ra là những bộ phận của ba thực thể vĩnh cửu: Chân - Thiện - Mỹ. Chân – đối với những truyền thống nghệ thuật của chúng ta, Thiện – đối với những con người mà chúng ta phải phục vụ, Mỹ – à, Mỹ là nữ thần của mọi nghệ sĩ, dù tồn tại trong dáng dấp một người phụ nữ yêu kiều hoặc một tòa nhà... ừm... đúng vậy... Tóm lại, tôi muốn nói với các bạn, những người sắp dấn thân vào nghề kiến trúc sư, rằng bây giờ, các bạn là người trông nom một di sản thiêng liêng... ừm... đúng vậy. Do đó, các bạn hãy tiến vào thế giới, các bạn đã được vũ trang bằng các nguyên lý Chân, Thiện, Mỹ; các bạn đã được trang bị bằng lòng dũng cảm và tầm nhìn, bằng sự trung thành với những tiêu chuẩn mà trường học vĩ đại này đã thể hiện qua nhiều năm. Chúc các bạn sẽ phục vụ một cách trung thành, không phải như những nô lệ cho quá khứ cũng không phải như những kẻ hãnh tiến suốt ngày rêu rao về “sáng tạo vì sáng tạo” – cả hai thái độ này đều biểu hiện sự phù phiếm vô nghĩa. Chúc tất cả các bạn có những năm tháng giàu có và năng động phía trước và chúc các bạn để lại, khi các bạn rời khỏi thế giới này, dấu vết của các bạn trên những hạt cát của thời gian.”

Guy Francon kết thúc bài phát biểu bằng cách giơ cao cánh tay phải của mình như thể ông đang chào; không trịnh trọng nhưng đầy phong cách, cái phong cách hài hước, tự tin mà Guy Francon tự cho phép bản thân mình thể hiện. Cả hội trường khổng lồ trước mặt ông sống dậy với những tràng pháo tay tán thưởng.

Trong suốt 45 phút, một biển những khuôn mặt trẻ, nhễ nhại mồ hôi và hứng khởi đã kính cẩn hướng về bục diễn thuyết nơi Guy Francon đứng phát biểu tại buổi lễ bế giảng của Học viện Công nghệ Stanton. Chính là Guy Francon – thân chinh đến từ tận New York. Chính là Guy Francon của hãng Francon
Suối Nguồn (The Fountainhead)
Chương 02 part 2

[SIZE="3"]Howard Roark đang ngồi trên bậc thềm ở hiên nhà khi Keating đi vào. Anh đang ngả người lên các bậc thềm, hai khuỷu tay chống xuống và duỗi dài chân ra. Một cây bìm bìm hoa tía leo dọc theo mái hiên, tạo thành một tấm rèm giữa ngôi nhà và ánh sáng của cột đèn ở góc đường.

Thật lạ lùng khi thấy một cái bóng đèn điện trong một đêm mùa xuân. Nó làm cho đường phố tối hơn và lỏng ra; nó đứng cô độc trong không trung và tạo ra một khoảng trống quanh nó. Không thể nhìn thấy gì trong khoảng trống ấy ngoại trừ một vài cành cây đầy lá đứng bất động bên rìa. Những cái lá khuếch đại cảm giác. Người ta có cảm tưởng ẩn trong bóng tối là một biển lá cây. Cái bóng đèn thủy tinh làm cho những chiếc lá sống động hơn; nó tước bỏ màu sắc của những chiếc lá và hứa hẹn rằng dưới ánh sáng ban ngày, chúng sẽ xanh hơn bao giờ hết. Cái bóng đèn cũng làm lóa mắt người ta; nó thay con mắt bằng một giác quan mới; không phải là thính giác cũng không phải xúc giác, mà là sự nhận biết về mùa xuân và về không gian.

Keating dừng lại khi anh nhận ra mái tóc màu vàng cam kỳ dị trong bóng tối hiên nhà. Roark là người duy nhất mà anh đã muốn gặp tối nay. Anh vừa vui mừng vì thấy Roark có một mình lại vừa cảm thấy hơi ngại ngùng.

“Chúc mừng anh, Peter,” Roark nói.

“Ồ..., cảm ơn cậu...” Keating ngạc nhiên thấy lời chúc mừng này làm anh thỏa mãn hơn bất cứ lời chúc tụng nào khác mà anh nhận được trong ngày hôm nay. Anh vừa ngầm sung sướng khi thấy Roark thừa nhận thành công của mình vừa ngầm rủa mình là đồ ngốc vì đã sung sướng. “... Ý tôi là... cậu biết... hay là...” Anh ta nói tiếp rất nhanh: “Mẹ tôi đã nói với cậu à?”

“Bác có nói.”

“Đáng lẽ mẹ tôi không nên.”

“Sao lại không?”

“Howard này, cậu biết đấy tôi rất tiếc vì cậu đã bị...” Roark ngả đầu về phía sau và ngước lên nhìn Keating.

“Quên chuyện đó đi,” Roark nói.

“Tôi... có một chuyện tôi muốn nói với cậu, Howard, để xin lời khuyên của cậu. Tôi ngồi được chứ?”

“Chuyện gì thế?”

Keating ngồi xuống bậc thềm bên cạnh Roark. Với Roark, anh không thể diễn bất cứ trò gì. Hơn thế, lúc này, anh cũng không muốn phải diễn. Keating nghe thấy một chiếc lá xào xạc rơi xuống mặt đất; đấy là một âm thanh mỏng, khô khốc và liên tục.

Anh biết, vào lúc này, anh cảm thấy mến Roark; một sự cảm mến hàm chứa cả sự khó chịu, ngạc nhiên và bất lực.

Keating nhẹ nhàng nói bằng giọng hoàn toàn chân thành, “Cậu không nghĩ là tôi thật tồi tệ khi hỏi chuyện của mình vào lúc mà cậu vừa bị...?”

“Tôi đã nói là quên chuyện đó đi. Anh có chuyện gì?”

“Cậu biết đấy,” Keating nói một cách chân thật và bất ngờ, ngay cả với chính mình, “Tôi thường nghĩ rằng cậu thật điên rồ. Nhưng tôi biết cậu biết nhiều về nó – về kiến trúc ấy. Ý tôi là – cậu biết những thứ mà những kẻ ngu ngốc kia không bao giờ biết. Và tôi biết rằng cậu say mê kiến trúc còn họ thì sẽ chẳng bao giờ.”

“Rồi sao?”

“À thì... tôi không biết tại sao tôi lại nghĩ đến cậu, nhưng – Howard, tôi chưa từng nói điều này trước đây, nhưng cậu thấy đấy, tôi thà hỏi ý kiến của cậu còn hơn là hỏi ông Trưởng khoa – tôi có thể nghe theo ý kiến của ông Trưởng khoa nhưng mà... ý kiến của cậu có nhiều ý nghĩa với tôi hơn, tôi cũng không biết tại sao. Tôi thậm chí cũng không biết tại sao tôi lại nói những thứ này.”

Roark quay người nhìn Keating và cười. Đó là một tiếng cười trẻ trung, thiện chí, và thân thiện. Rất hiếm người nghe thấy Roark cười; vì thế Keating có cảm tưởng ai đó đang nắm tay anh một cách tin tưởng. Anh quên mất có một bữa tiệc đang đợi mình ở Boston.

“Thôi nào,” Roark nói, “anh không sợ tôi đấy chứ? Anh muốn hỏi cái gì?”

“Về học bổng của tôi. Học bổng đi Paris ấy.”

“Sao nào?”

“Học bổng đó cho bốn năm. Nhưng, trước đây Guy Francon đã đề nghị tôi về làm việc cho ông ta. Ngày hôm nay ông ấy nói rằng lời đề nghị đó vẫn còn hiệu lực. Và tôi không biết chọn cái nào.”

Roark nhìn Keating; Các ngón tay của Roark gõ chầm chậm lên các bậc thềm.

“Nếu anh muốn lời khuyên của tôi, Peter ạ,” cuối cùng Roark nói, “thì anh đã mắc sai lầm rồi. Sai lầm vì hỏi ý kiến tôi. Hoặc hỏi ý kiến của bất kỳ ai. Đừng bao giờ hỏi người khác. Đừng hỏi về công việc của anh. Chẳng nhẽ anh lại không biết mình muốn cái gì sao? Làm sao mà anh có thể chịu được việc không biết mình muốn gì?

“Đấy đấy, đấy chính là điều mà tôi ngưỡng mộ cậu, Howard. Cậu luôn luôn biết.”

“Bỏ qua chuyện tán tụng đi!”

“Nhưng tôi nói thật đấy. Làm sao mà cậu luôn có thể tự quyết định?”

“Làm sao anh lại có thể để người khác quyết định thay anh?”

“Nhưng cậu biết đấy, tôi không chắc lắm, Howard. Tôi chưa bao giờ chắc chắn về bản thân. Tôi không biết liệu tôi có giỏi như là tất cả mọi người vẫn nói về tôi hay không. Tôi sẽ không thừa nhận điều này với bất kỳ ai ngoại trừ cậu. Tôi nghĩ đó là vì cậu luôn biết chắc, đến nỗi tôi...”

“Petey!” Tiếng bà Keating vang lên phía sau họ. “Petey, con yêu! Con còn làm gì ở đấy đấy?”

Bà đứng ở bậc cửa trong chiếc váy tafta màu rượu vang đỏ đẹp nhất của bà. Trông bà vừa có vẻ sung sướng, lại vừa có vẻ bực mình.

“Còn mẹ thì đã ngồi đây một mình để chờ con đấy! Con đang làm cái quái gì trên những bậc thềm bẩn thỉu đó trong bộ quần áo sang trọng như vậy? Đứng lên ngay lập tức! Vào nhà ngay. Mẹ có sô-cô-la nóng và bánh quy cho các con đây.”

“Nhưng... Mẹ! Con có chuyện quan trọng muốn nói với Howard,” Keating nói. Tuy nhiên anh vẫn đứng lên.

Bà Keating dường như không nghe thấy. Bà đi vào trong nhà. Keating đi theo bà.

Roark nhìn theo họ. Anh nhún vai, rồi đứng lên và cũng đi vào.

Bà Keating ngồi xuống cái ghế bành. Cái váy bó của bà kêu sột soạt.

“Thế nào?” bà hỏi. “Thế hai anh đang nói chuyện gì ở ngoài kia đấy?”

Keating mân mê cái gạt tàn. Anh cầm hộp diêm lên rồi đặt xuống; sau đó anh tảng lờ bà mẹ và quay sang Roark.

“Này, Howard, nghiêm túc nhé,” anh cao giọng. “Liệu tôi nên vứt quách cái học bổng đấy đi và đi làm, hay là cứ để Francon chờ và kiếm cái chứng chỉ Mỹ thuật để dọa bọn nhà quê? Cậu nghĩ sao?”

Một cái gì đó đã mất. Khoảnh khắc đó đã qua rồi.

“Nào, Petey, để mẹ xem nào...” bà Keating cất tiếng.

“Kìa mẹ, mẹ cứ từ từ!... Howard, tôi phải cân nhắc kỹ. Không phải ai cũng nhận được học bổng như vậy. Chính cậu cũng biết rõ điều này. Một khóa học tại trường Mỹ thuật – cậu biết là nó rất quan trọng.”

“Tôi không biết điều đó,” Roark nói.

“Ôi trời, quỷ tha ma bắt, tôi biết những ý tưởng điên rồ của cậu, nhưng tôi đang nói đến thực tế, đến một người cụ thể ở vị trí của tôi. Hãy tạm dẹp lý thuyết sang một bên đã, dĩ nhiên là về lý thuyết thì...”

“Anh không muốn có lời khuyên của tôi đâu.” Roark nói.

“Tất nhiên là tôi muốn! Tôi đang hỏi cậu mà!”

Nhưng Keating không bao giờ có thể là chính mình khi anh có khán giả ở quanh, bất kỳ khán giả nào. Một thứ gì đó đã mất. Anh không biết nó là cái gì nhưng anh cảm thấy Roark biết; đôi mắt của Roark làm anh thấy bất ổn và điều đó làm anh giận dữ.

“Tôi muốn thực hành nghề kiến trúc,” Keating gằn giọng, “chứ không phải chỉ nói về nó! Trường Mỹ thuật Paris – dĩ nhiên là nó mang lại danh tiếng. Dĩ nhiên là nó sẽ đặt tôi lên trên hẳn những thằng kiến trúc sư vốn xuất thân là thợ ống nước nhưng lại nghĩ là có thể xây nhà. Nhưng mà... đi làm với Francon... mà lại đích thân Guy Francon đề nghị nữa chứ!”

Roark quay đi.

“Liệu có bao nhiêu người được như thế?” Keating cứ tự động nói. “Một năm nữa, bọn cùng lớp sẽ khoác lác rằng mình đang làm việc ột hãng quèn nào đó, nếu họ có thể tìm được việc làm. Trong khi tôi sẽ làm việc cho Francon
Suối Nguồn (The Fountainhead)
Chương 03 part 1

[SIZE="3"]

 

Peter Keating nhìn ngắm các đường phố ở New York. Anh thấy mọi người ăn mặc vô cùng đẹp đẽ.

Anh dừng lại một chút trước tòa nhà trên Đại lộ Năm, nơi văn phòng của hãng Francon
Suối Nguồn (The Fountainhead)
Chương 03 part 2

Vào những năm 1880, các kiến trúc sư New York tranh nhau ngôi vị thứ hai trong ngành kiến trúc. Không ai dám mơ tưởng vị trí thứ nhất. Vị trí thứ nhất do Henry Cameron giữ. Thật khó mà với tới Henry Cameron vào thời đó. Ông có danh sách khách hàng chờ thiết kế trước hai năm; ông tự tay vẽ mọi bản vẽ thiết kế mà văn phòng mình nhận làm. Ông chọn lựa những gì ông muốn xây. Khi ông xây, khách hàng phải ngậm miệng. Ông đòi hỏi ở mọi người một thứ mà ông không bao giờ trao cho bất kỳ ai: sự tuân phục. Ông trải qua những năm tháng nổi danh như một quả tên lửa bay đến một mục tiêu mà không ai có thể đoán được. Người ta bảo ông điên. Nhưng họ chấp nhận những gì ông làm cho họ dù họ có hiểu nó hay không. Họ chấp nhận vì nó là tòa nhà được xây “bởi Henry Cameron.”

Ban đầu, những tòa nhà của Henry Cameron chỉ hơi khác biệt một chút – chúng không đủ để làm người ta sợ hãi. Thỉnh thoảng ông làm những thử nghiệm gây sửng sốt, nhưng mọi người đều đã chờ đợi trước điều này và chẳng ai lại tranh cãi với Henry Cameron. Nhưng rồi một cái gì đó cứ lớn lên trong ông cùng với mỗi tòa nhà mới; nó trăn trở, định hình và dâng lên dần thành một sự bùng nổ. Sự bùng nổ ấy đến cùng với sự ra đời của các tòa nhà chọc trời. Khi các tòa nhà bắt đầu mọc lên không phải theo kiểu những tòa nhà chia tầng bằng vữa nặng nề mà như những mũi tên thép bắn thẳng lên trời cao, bất chấp trọng lượng hoặc giới hạn, thì Henry Cameron là một trong số những người đầu tiên hiểu được sự thần kỳ này, đồng thời tạo hình cho nó. Ông là một trong những người đầu tiên và hiếm hoi chấp nhận thực tế là một tòa nhà cao thì trông phải cao. Trong khi các kiến trúc sư nguyền rủa và băn khoăn không biết làm thế nào để ột tòa nhà hai mươi tầng trông như một biệt thự gạch cổ điển, trong khi họ sử dụng mọi thứ định dạng hàng ngang sẵn có nhằm đánh lừa cảm giác về chiều cao của tòa nhà, để thu ngắn tòa nhà xuống theo kiểu truyền thống, để che giấu sự xấu hổ của lớp cốt thép, để làm cho nó nhỏ nhắn, an toàn và cổ kính – thì Henry Cameron thiết kế các tòa nhà chọc trời với các đường thẳng đứng, khoe khoang lớp sắt thép và độ cao của chúng. Trong khi các kiến trúc sư vẽ các trụ ngạch và trán tường cổ điển, thì Henry Cameron quyết định rằng các tòa nhà chọc trời không được sao chép kiến trúc Hy Lạp. Henry Cameron quyết định rằng không một tòa nhà nào được sao chép từ tòa nhà nào.

Lúc đó ông 39 tuổi, thấp, chắc nịch, lôi thôi; ông làm việc như một con trâu[7], quên ăn quên ngủ, uống rất ít nhưng rồi uống như hũ chìm; ông gọi khách hàng của mình bằng những cái tên không thể viết ra được; ông cười lớn vào tính đố kỵ của người khác và cố tình kích thích nó; ông xử sự như một nhà quý tộc thời phong kiến đồng thời lại như một người bốc vác ở bờ biển; ông sống trong sự căng thẳng của đam mê – một thứ căng thẳng như một mũi kim chích vào mọi người ở bất cứ căn phòng nào ông bước vào – một thứ lửa mà cả ông lẫn họ đều không thể chịu đựng lâu. Đó là năm 1892.

Nhà triển lãm Columbia tại Chicago mở cửa vào năm 1893.

Công trình kiến trúc La Mã 2000 tuổi này tọa lạc bên bờ hồ Michigan – một thứ kiến trúc La Mã được cải tiến bằng cách chắp vá thêm phong cách Pháp, Tây Ban Nha, Athens và mọi phong cách ra đời sau đó. Nó là “Thành phố mơ ước” của cột, khải hoàn môn, hồ nước, vòi phun nước pha lê và bỏng ngô. Các kiến trúc sư của nó cạnh tranh xem ai có thể ăn cắp tài tình nhất từ các các kiến trúc cổ xưa, cũng như ai là người đồng thời ăn cắp được nhiều phong cách kiến trúc nhất. Khu triển lãm phơi bày trước mắt người ta tất cả những tội ác kiến thiết mà nhân loại từng phạm phải. Một công trình trắng toát như một thứ bệnh dịch và cũng hoành tráng như một thứ bệnh dịch[8].

Người ta đến, chiêm ngưỡng, sững sờ và mang những hạt giống ý tưởng mà họ nhìn thấy từ công trình này đến các thành phố của Hoa Kỳ. Những hạt giống đã nảy mầm thành cỏ dại; chúng phát triển thành những trạm bưu điện ốp ván với những mái vòm kiểu Doric, những biệt thự bằng gạch với trán tường sắt, những chuồng chim được làm bởi mười hai đền parthenon lần lượt xếp chồng lên mái của nhau. Cỏ dại cứ thế lớn lên và ăn lấn mọi thứ khác.

Henry Cameron đã từ chối làm việc cho Triển lãm Columbia và gọi nó bằng những cái tên không thể in lên mặt báo nhưng có thể truyền miệng cho nhau, mặc dù chỉ trong những đám đông nhất định. Sự thật là chúng đã được truyền miệng lại. Người ta cũng truyền nhau rằng ông đã ném một lọ mực vào mặt một chủ nhà băng nổi tiếng khi người này yêu cầu ông thiết kế một ga tàu hỏa phỏng theo đền thờ Diana[9] ở Ephesus. Ông chủ nhà băng đó không bao giờ quay trở lại. Có những người khác cũng không bao giờ quay trở lại.

Chính vào lúc Henry Cameron đạt đến cái đích của những năm tháng tranh đấu lâu dài, chính vào lúc ông định hình được cái chân lý mà ông kiếm tìm, thì thanh rào chắn cuối cùng đã đóng sập trước mặt ông. Nước Mỹ non trẻ đã dõi theo trận chiến của ông, đã băn khoăn, đã bắt đầu chấp nhận sự vĩ đại mới mẻ trong những công trình của ông. Nhưng rồi chính đất nước ấy cũng đã quăng mình trở lại 2000 năm, quăng mình trở lại với chủ nghĩa Cổ điển và vì thế mà không dành chỗ nào cho ông và không dùng ông nữa.Người ta không còn cần phải thiết kế các tòa nhà nữa, người ta chỉ cần sao chụp lẫn nhau; kiến trúc sư với thư viện tốt nhất trở thành kiến trúc sư giỏi nhất. Những kẻ bắt chước lại sao chép những tác phẩm bắt chước. Hậu thuẫn cho sự sao chép ấy – đã có Văn hóa, đã có hai mươi thế kỷ phơi bày trong các tàn tích kiến trúc; đã có nhà triển lãm Columbia vĩ đại; đã có những bưu thiếp châu Âu mà album gia đình nào cũng giữ.

Henry Cameron chẳng có gì để chống lại điều này; chẳng có gì ngoài một niềm tin mà ông giữ bởi vì nó là niềm tin của chính ông. Ông không có ai để trích dẫn và không có điều gì thực sự quan trọng để nói. Ông chỉ nói rằng hình dạng của một tòa nhà phải tuân theo chức năng của nó; rằng cấu trúc của một tòa nhà là chìa khóa cho vẻ đẹp của nó; rằng các phương pháp xây dựng mới đòi hỏi những mô hình kiến trúc mới; rằng ông chỉ muốn xây theo ý mình và chỉ theo ý mình mà thôi. Nhưng người ta không thể lắng nghe ông khi mà họ đang thảo luận về Vitruvius, Michelangelo và Ngài Christopher Wren.

Con người căm thù sự đam mê, bất kỳ sự đam mê vĩ đại nào. Henry Cameron đã mắc sai lầm: ông say mê công việc của mình. Đó là lý do tại sao ông đấu tranh. Đó là lý do tại sao ông thất bại.

Người ta nói rằng ông chẳng bao giờ biết rằng mình đã thua. Nếu ông biết, ông đã không để họ thấy. Khi các khách hàng trở nên hiếm hoi hơn, cách cư xử của ông đối với họ càng trở nên độc đoán hơn. Khi tên tuổi của ông càng kém uy tín đi, thì cái giọng mà ông dùng để gọi tên mình càng kiêu ngạo hơn. Ông từng có một người quản lý rất sắc sảo, một người đàn ông bé nhỏ sắt đá, nhẹ nhàng và kín đáo, người mà, vào thời kỳ huy hoàng của ông, lặng lẽ đối diện với những cơn bão giận dữ của Cameron và đem khách hàng đến cho ông; Cameron xúc phạm khách hàng, nhưng người đàn ông nhỏ bé đã làm cho họ chấp nhận điều này và quay trở lại. Người đàn ông nhỏ bé đó đã chết.

Cameron chưa từng biết cách đối mặt với con người. Họ không quan trọng đối với ông, như chính cuộc đời ông cũng chẳng quan trọng, như chẳng có gì quan trọng ngoại trừ các tòa nhà. Ông chưa từng học cách giải thích mà chỉ biết ra lệnh. Ông chưa bao giờ được yêu quý. Ông chỉ được mọi người sợ. Giờ thì chẳng còn ai sợ ông nữa.

Người ta để cho ông sống. Sống để ghê tởm những con đường của cái thành phố mà ông từng mơ ước xây dựng lại nó. Sống để ngồi bên cái bàn làm việc trong văn phòng trống rỗng của mình, bất động, không việc làm và chờ đợi. Sống để đọc trong một tờ báo đáng kính nào đó, một bài viết đầy ẩn ý có nhắc đến “thời hậu Henry Cameron.” Sống để bắt đầu uống rượu, lặng lẽ, liên tục, kinh khủng, đôi khi suốt đêm ngày; và để nghe chính những kẻ đã đẩy ông đến hoàn cảnh này nói – khi có ai đó nêu tên ông ột cuộc đấu thầu xây dựng – rằng: “Cameron ư? Lẽ ra tôi không nên nói. Ông ta uống như hũ chìm. Đó là lý do tại sao ông ta không bao giờ tìm được bất kỳ công việc nào.” Ông sống để chuyển từ những văn phòng chiếm tới ba tầng lầu của một tòa nhà nổi tiếng tới một tầng lầu trên một đường phố rẻ tiền hơn, rồi đến một căn nhà xa trung tâm thành phố, rồi đến ba phòng nhìn ra một ống thông gió cạnh đường hầm Battery. Ông chọn những căn phòng này vì khi dán mặt vào cửa sổ văn phòng ông có thể nhìn thấy, phía trên một bức tường gạch, đỉnh của tòa nhà Dana.

Howard Roark nhìn tòa nhà Dana qua cửa sổ; anh dừng lại ở mỗi chiếu nghỉ cầu thang khi anh leo sáu tầng gác để lên văn phòng của Henry Cameron. Thang máy không hoạt động. Các bậc thang được sơn một màu xanh lá cây bẩn thỉu cũ kỹ; nước sơn vỡ ra dưới đế giày thành những vụn nhỏ tơi tả. Roark nhanh nhẹn đi lên cầu thang như thể anh có một cuộc hẹn; một tập bản vẽ kẹp dưới cánh tay anh, ánh mắt anh vẫn nhìn về tòa nhà Dana. Một lần, anh đâm sầm vào một người đàn ông đang đi xuống cầu thang; điều này thường xảy ra với anh trong hai ngày vừa qua; anh đã đi bộ dọc theo các đường phố của New York, đầu ngoái ra sau và chẳng chú ý đến cái gì khác ngoại trừ các tòa nhà.

Trong bóng tối phòng tiếp khách của văn phòng Cameron có một cái bàn với một cái điện thoại và một chiếc máy chữ. Một người đàn ông tóc hoa râm ngồi bên bàn. Ông ta gầy giơ xương; ông ta mặc áo sơ mi và một chiếc quần có hai dây treo lỏng lẻo trên vai. Ông ta đang chăm chú đánh máy các thông số kỹ thuật bằng hai ngón tay và với tốc độ không thể tin nổi. Cái bóng đèn lờ mờ tạo thành một luồng ánh sáng vàng vọt trên lưng ông ta, nơi mà cái áo sơ mi ẩm ướt dính chặt vào hai bả vai.

Người đàn ông chậm rãi ngẩng đầu lên khi Roark bước vào. Ông ta nhìn Roark, chẳng nói chẳng rằng và chờ đợi; đôi mắt già nua của ông ta mệt mỏi, vô cảm, vô tâm.

“Tôi muốn gặp ông Cameron,” Roark nói.

“Thế hả?” người đàn ông nói không ra ý phản bác, xúc phạm hay bất kỳ ý nghĩa gì. “Về chuyện gì?”

“Về việc làm.”

“Việc gì?”

“Vẽ thiết kế.”

Người đàn ông ngồi ngây ra nhìn anh. Đây là một yêu cầu mà đã lâu rồi ông ta không còn nghe thấy nữa. Cuối cùng ông ta đứng dậy, chẳng nói một lời. Ông ta lê bước đến cái cửa ở sau lưng và bước vào.

Ông ta để cánh cửa khép hờ. Roark nghe ông ta nói với giọng lè nhè: “Thưa ông Cameron, ngoài kia có một anh chàng nói rằng anh ta muốn tìm việc làm ở đây.”

Sau đó là một giọng trả lời – một giọng mạnh mẽ và rõ ràng, không thể hiện dấu ấn tuổi tác: “Cái gì cơ, một thằng ngu! Tống cổ nó đi... Khoan đã! Cứ cho nó vào!”

Người đàn ông quay lại, để cửa mở và lẳng lặng hất đầu về phía cửa.

Roark bước vào. Cánh cửa đóng lại sau lưng anh.

Henry Cameron ngồi tại bàn làm việc ở cuối căn phòng dài và trống rỗng. Ông ngồi chúi về phía trước, khuỷu tay đặt trên bàn, hai bàn tay đan lại trước mặt. Tóc và râu ông có màu đen nhánh xen lẫn những sợi thô, trắng. Các bắp thịt ở cổ ông ngắn và dày; chúng nổi lên như những sợi dây thừng. Ông mặc một cái áo sơ mi trắng, tay áo gấp lên đến tận khuỷu; cánh tay trần màu nâu cứng cỏi, nặng nề. Các thớ thịt trên khuôn mặt bành bạnh của ông đanh lại, như thể sức ép làm cho chúng già đi. Hai con mắt đen, trẻ trung và sống động.

Roark đứng ở ngưỡng cửa và họ nhìn nhau qua căn phòng dài.

Ánh sáng từ lỗ thông gió mang một màu xám đục. Trong khi đó lớp bụi phủ đầy trên bàn thiết kế và trên một vài tập hồ sơ màu xanh lá cây thì trông như những tinh thể pha lê mờ được lắng xuống bởi ánh sáng. Nhưng trên tường, giữa các cửa sổ, Roark nhìn thấy một bức tranh. Nó là bức tranh duy nhất trong phòng. Đó là bản vẽ một tòa nhà chọc trời chưa từng được xây dựng.

Ánh mắt của Roark di chuyển trước và chúng di chuyển về phía bức vẽ. Anh đi ngang qua văn phòng, dừng lại trước bản vẽ và đứng nhìn nó. Ánh mắt của Cameron dõi theo anh, một cái lườm nặng nề, như một cái kim dài và mảnh được giữ chặt một đầu, còn đầu kia vẽ nên một vòng tròn chậm rãi, rồi châm và ghim thật chặt vào cơ thể Roark. Cameron nhìn mái tóc màu vàng cam và cái bàn tay đang buông cạnh sườn của anh ta – lòng bàn tay mở ra, hướng về bản vẽ, các ngón tay hơi cong lại; chúng bị bỏ quên khi người chủ của nó định làm động tác đón bắt hoặc giữ chặt một cái gì đó.

“Thế nào?” cuối cùng Cameron cất tiếng. “Cậu đến gặp tôi hay là đến để xem tranh?”

Roark quay về phía ông.

“Cả hai,” Roark nói.

Anh bước về phía cái bàn. Mọi người luôn bị mất cảm giác về sự tồn tại của mình trước mặt Roark; nhưng Cameron đột ngột cảm thấy rõ ràng về sự tồn tại của mình, như ông đang thấy trong đôi mắt đang nhìn vào ông.

“Cậu muốn gì?” Cameron cáu kỉnh.

“Tôi muốn làm việc cho ông,” Roark nhẹ nhàng đáp lại. Cái giọng ấy đã nói: “Tôi muốn làm việc cho ông.” Nhưng âm điệu của cái giọng ấy lại nói: “Tôi sẽ làm việc cho ông.”

“Cậu sẽ?” Cameron nói mà không nhận ra rằng ông đã trả lời cái câu hỏi không được tuyên bố kia. “Có chuyện gì vậy? Không ai nổi tiếng hơn hay giỏi hơn tôi nhận cậu à?”

“Tôi không nộp hồ sơ cho ai khác.”

“Tại sao không? Có phải cậu nghĩ đây là chỗ dễ dàng nhất để bắt đầu? Cậu nghĩ rằng bất kỳ ai cũng có thể đi vào đây mà không gặp trở ngại hả? Cậu có biết tôi là ai không?”

“Có. Đó là lý do tại sao tôi đến đây.”

“Ai giới thiệu cậu đến đây?”

“Chẳng ai cả.”

“Cậu chọn tôi vì cái chó chết gì?”

“Tôi nghĩ là ông biết điều đó.”

“Cái chó gì làm cậu tin rằng tôi cần cậu? Có phải cậu cho rằng tôi quá túng quẫn đến mức tôi phải mở cửa chào đón bất kỳ thằng vô lại nào đến làm việc cho tôi? Có phải cậu tự nói với mình rằng ‘Ôi lão già Cameron, lão là đồ hết thời,... đồ nát rượu...’ nào, cậu đã nói thế... ‘một kẻ thất bại nát rượu chẳng thể nào kén chọn được!’ Có đúng vậy không?... Nào, nói đi đi! Nói đi, đồ chết tiệt! Cậu đang nhìn cái gì đấy? Có đúng vậy không? Nói đi! Cứ chối đi xem nào!”

“Không cần thiết.”

“Trước đây cậu đã làm ở đâu?”

“Tôi mới chỉ bắt đầu.”

“Cậu đã làm được gì?”

“Tôi học ba năm ở Stanton.”

“Ra thế? Quý ngài đây lười đến nỗi không buồn học xong cơ à?”

“Tôi bị đuổi học.”

“Tuyệt vời!” Cameron đấm tay xuống bàn và cười phá ra “Hoành tráng quá nhỉ! Cậu không đủ tốt đối với cái đám chấy rận ở Stanton, nhưng mà cậu sẽ làm việc cho Henry Cameron cơ đấy! Ngài đây nghĩ rằng chỗ này là chỗ chứa đồ phế thải! Tại sao họ lại tống cổ ngài ra thế? Vì rượu? Vì gái? Hay vì cái gì?”

“Vì những cái này,” Roark nói và chìa các bản vẽ của mình ra.

Cameron nhìn bản vẽ đầu tiên, rồi bản tiếp theo rồi tất cả mọi bản vẽ, cho đến tận bức dưới cùng trong tập giấy. Roark nghe tiếng giấy sột soạt khi Cameron lật hết tờ này đến tờ khác. Rồi Cameron ngẩng đầu lên.

“Ngồi xuống.”

Roark vâng lời. Cameron nhìn anh chăm chú, những ngón tay mập mạp của ông gõ nhịp trên tập bản vẽ.

“Cậu nghĩ là chúng đẹp lắm hả?” Cameron hỏi. “Hừm, chúng thật kinh tởm. Không thể diễn tả nổi. Đó là tội ác. Nhìn này,” ông ném một bản vẽ vào mặt Roark, “nhìn đi. Ý tưởng của cậu là gì vậy? Cái quái gì đã làm cậu quyết định nhét cái bản vẽ đó vào đây? Có phải chỉ vì cậu muốn có cái gì đèm đẹp, nên cậu phải gom góp tất cả những thứ cậu có? Cậu nghĩ cậu là ai cơ chứ? Vì Chúa, cậu nghĩ cậu là Guy Francon à?... Nhìn tòa nhà này đi, đồ ngu! Cậu có ý tưởng như thế này mà cậu lại không biết phải làm gì với nó cả! Cậu nghĩ ra một thứ tuyệt vời và cậu phải phá tan nó! Cậu có biết cậu còn phải học nhiều lắm không?”

“Có. Đó là lý do tại sao tôi đến đây.”

“Và nhìn cái kia xem! Tôi ước là tôi đã vẽ được như thế vào tuổi của cậu! Nhưng tại sao cậu lại phải phá hỏng nó? Cậu có biết tôi sẽ làm gì với nó không? Nhìn này, mặc xác các cầu thang gác và cả lò sưởi nữa chứ! Khi cậu đặt móng...”

Ông hăng say nói một lúc lâu. Ông chửi thề. Ông không thấy bất kỳ bản vẽ nào làm ông thỏa mãn. Nhưng Roark nhận thấy ông nói như thể các tòa nhà này đang trong quá trình xây dựng.

Ông đột ngột ngừng lại, đẩy các bản vẽ sang bên cạnh và đặt nắm tay lên trên. Ông hỏi:

“Cậu quyết định trở thành kiến trúc sư từ bao giờ?”

“Khi tôi 10 tuổi.”

“Người ta không biết mình muốn gì ở tuổi đấy, giả sử như có lúc nào đó trong đời mà họ biết. Cậu nói dối.”

“Tôi nói dối?”

“Đừng nhìn tôi chằm chằm như thế! Cậu không nhìn cái gì khác được à? Tại sao cậu quyết định trở thành kiến trúc sư?”

“Tôi không biết. Nhưng đó là vì tôi chưa từng tin vào Chúa.”

“Nào, đừng nói vớ vẩn nữa!”

“Vì tôi yêu quý mặt đất này. Đấy là tất cả những gì tôi yêu quý. Tôi không thích hình dạng của những thứ trên trái đất này. Tôi muốn thay đổi chúng.”

“Cho ai?”

“Cho bản thân tôi.”

“Cậu bao nhiêu tuổi rồi?”

“22.”

“Cậu nghe được những thứ này từ bao giờ?”

“Tôi không nghe”

“Người ta không nói như vậy khi 22 tuổi. Cậu không bình thường.”

“Có lẽ vậy.”

“Tôi không có ý khen!”

“Tôi cũng thế.”

“Có gia đình không?”

“Không.”

“Làm việc để trả tiền học?”

“Vâng.”

“Việc gì?”

“Xây dựng.”

“Cậu còn lại bao nhiêu tiền?”

“70 đô la và 30 cent.”

“Cậu đến New York khi nào?”

“Hôm qua.”

Cameron nhìn tập hồ sơ bìa trắng dưới nắm tay mình.

“Quỷ tha ma bắt cậu đi,” Cameron nhẹ nhàng nói.

“Quỷ tha ma bắt cậu đi!” Cameron chợt gầm lên và chồm người về phía trước. “Tôi không yêu cầu cậu đến đây! Tôi không cần người vẽ thiết kế! Chẳng có gì ở đây để thiết kế cả! Tôi không có đủ việc làm để cứu bản thân tôi và nhân viên của tôi khỏi trại tế bần[10]! Tôi không muốn có bất cứ thằng ngốc có tài nào bị chết đói ở chỗ này! Tôi không muốn chịu trách nhiệm. Tôi không yêu cầu trách nhiệm. Tôi không bao giờ nghĩ là phải gặp lại nó. Tôi đã chán ngấy trách nhiệm rồi. Tôi chán ngấy nó từ cách đây lâu rồi. Tôi hoàn toàn hài lòng với bọn ngốc thò lò mũi xanh mà tôi đang có ở đây; bọn chúng chưa từng có cái gì và sẽ chẳng có cái gì và chúng trở thành cái quái gì thì cũng thế cả. Tôi chỉ muốn có thế thôi. Tại sao cậu lại phải đến đây? Cậu đang chuẩn bị phá hỏng chính bản thân cậu; cậu biết thế, đúng không? Và tôi sẽ giúp cậu làm việc này. Tôi không muốn nhìn thấy cậu. Tôi không thích cậu. Tôi không thích cái mặt của cậu. Cậu là một kẻ sùng bái bản thân mình; cậu không thể bị tổn thương. Cậu thật láo toét. Cậu quá tự tin. Cách đây hai mươi năm, tôi sẽ sung sướng được đấm vào mặt cậu. Cậu sẽ đến đây làm việc vào ngày mai, đúng chín giờ sáng.”

“Vâng,” Roark trả lời và đứng lên.

“15 đô la một tuần. Đấy là tất cả những gì tôi có thể trả cậu.”

“Vâng.”

“Cậu đúng là đồ ngốc. Đáng lẽ cậu nên đi làm cho người khác. Tôi sẽ giết cậu nếu cậu làm việc cho ai khác. Tên cậu là gì?”

“Howard Roark.”

“Nếu cậu đến muộn, tôi sẽ đuổi cậu.”

“Vâng.”

Roark vươn tay lấy các bản vẽ.

“Để chúng ở đây!” Cameron gầm lên. “Giờ thì cút ngay!”

[1]Kiểu Doric: một trong ba kiểu cột trụ thời Hy Lạp cổ đại. Chiều cao của cột bằng 5,5 lần chiều rộng của cột. (ND)

[2] Nguyên văn: những họa sĩ mặc áo thụng Hy Lạp.

 

[3] Kiểu Chippendale: một kiểu đồ gỗ thế kỷ 18 ở Anh; do nhà thiết kế Thomas Chippendale sáng tạo và công bố trong một cuốn sách vẽ các thiết kế đồ gỗ của ông. (NHĐ)

[4] Vua James đệ nhất (1566-1625): một Hoàng đế nổi tiếng của Anh. Đây là thời kỳ có một phong cách kiến trúc riêng. (NHĐ)

[5] Nhà thờ lớn ở Rheims, nơi các vua của Pháp từng được phong vương. Nó được xây theo kiến trúc nhà thờ lớn đặc trưng, giống như của nhà thờ Đức Bà Paris hiện nay. (NHĐ)

[6] Khu nhà triển lãm hải dương học.

[7] Con chó trong nguyên tác. (NHĐ)

[8] Ở đây tác giả chơi chữ trong nguyên bản: màu trắng của tòa nhà triển lãm là do màu sơn của nó, nhưng tác giả chơi chữ "white plague" - vốn là từ ám chỉ "nạn dịch trắng" tức là những thứ dịch vào thế kỷ 19 và 20, trong đó những bệnh thường trở nên xanh xao, trắng nhợt. Những dịch này - ví dụ như lao - lan rộng, khó chữa, khiến nhiều người chết và người ta thường đổ vôi bột trắng trên các mộ chôn tập thể. (NHĐ)

[9] Trong thần thoại La Mã, Diana là nữ thần săn bắn, chị em sinh đôi với thần Appolo, con trai của thần Zeus và Latona. (NHĐ)

[10] Nguyên văn: Bowery Mission, là một chương trình từ thiện ở New York, từ thế kỷ trước, dành cho người nghèo, vô gia cư. (NHĐ)

Suối Nguồn (The Fountainhead)
Chương 04 part 1

[SIZE="3"]"Toohey," Guy Francon nói, "Ellsworth Toohey. Ông ta tử tế đấy chứ, anh có nghĩ vậy không? Đọc đi này, Peter.”

Francon vươn người một cách vui vẻ qua bàn làm việc và đưa cho Keating số tháng Tám của tờ Những mặt trận mới. Tờ tạp chí có trang bìa màu trắng với một biểu trưng màu đen có hình kết giữa một bảng màu, một chiếc đàn lia, một cái búa, tuốc-nơ-vít và mặt trời mọc; nó tiêu thụ 30.000 ấn bản mỗi số và những người cổ súy cho nó mô tả nó như là người tiên phong tri thức của đất nước – chưa có ai đứng ra để phản bác lại điều này. Keating bắt đầu đọc từ một bài viết có tiêu đề Cẩm thạch và Vữa, của Ellsworth M. Toohey:

“... Và bây giờ chúng ta đề cập đến một thành tựu đáng chú ý khác trong các công trình kiến trúc cao tầng ở đô thị. Chúng tôi muốn các bạn chú ý đến sự tinh tế của tòa nhà mới xây có tên Melton do hãng Francon
Suối Nguồn (The Fountainhead)
Chương 04 part 2

[SIZE="3"]Anh đã gửi cho cô một bức điện vào cái đêm anh tốt nghiệp đại học và đã quên cô kể từ khi đó. Giờ đây anh lại muốn gặp cô – cái ước muốn này trở nên sâu sắc và cấp bách ngay khi tên cô vang lên trong trí nhớ của anh. Anh nhảy lên một cái xe buýt để đi một đoạn dài đến Greenwich Village[2]. Anh trèo lên nóc cái xe không một bóng người[3], ngồi ngay cái ghế phía đầu xe và chửi thề mỗi khi đèn giao thông chuyển sang màu đỏ. Điều này luôn xảy ra khi anh nghĩ đến Catherine và anh lờ mờ băn khoăn không biết mình bị làm sao.

Anh đã gặp cô cách đây một năm ở Boston, nơi cô sống với bà mẹ góa của mình. Ở lần gặp gỡ đầu tiên đó, anh thấy Catherine là người chất phác và tẻ nhạt, cô chẳng có điểm gì đặc biệt ngoại trừ nụ cười đáng yêu – lẽ ra chẳng đủ là lý do để anh muốn gặp lại cô. Thế mà anh đã gọi điện cho cô vào tối hôm sau. Trong vô vàn những cô gái mà anh biết trong quãng đời sinh viên của mình, cô là người duy nhất mà anh chẳng tiến xa hơn ngoài một vài nụ hôn. Anh có thể có bất kỳ cô gái nào mà anh gặp và anh biết điều đó; anh biết rằng anh có thể có Catherine; anh muốn cô; cô yêu anh và chấp nhận điều đó một cách đơn giản, cởi mở, không sợ hãi hay xấu hổ, chẳng đòi hỏi gì ở anh, chẳng mong chờ gì ở anh; nhưng chẳng hiểu tại sao anh chưa từng lợi dụng điều này. Anh đã tự hào về những cô gái mà anh tháp tùng vào thời gian đó, những cô gái đẹp nhất, nổi tiếng nhất, ăn mặc đỏm dáng nhất và anh từng thích thú với sự ghen tỵ của các bạn cùng trường. Anh từng xấu hổ về sự luộm thuộm vô tâm của Catherine cũng như về một thực tế là chẳng có chàng trai nào buồn nhìn đến cô đến lần thứ hai. Nhưng anh chưa bao giờ hạnh phúc như khi anh đưa cô đến các buổi khiêu vũ của hội sinh viên. Anh có nhiều cuộc tình cuồng nhiệt, khi mà anh thề thốt rằng anh không thể sống thiếu cô gái này hay cô gái khác; những lúc như vậy, anh quên bẵng Catherine trong nhiều tuần liền; vậy mà cô không bao giờ nhắc anh. Anh luôn quay trở lại với cô, đột ngột và khó hiểu, như là đêm nay.

Mẹ cô, một giáo viên phổ thông nhỏ nhắn và hiền lành, đã qua đời vào mùa đông năm ngoái. Catherine đã đến sống với ông chú ở New York. Một số thư của Catherine được Keating trả lời lập tức; một số khác phải hàng tháng sau. Cô thì luôn luôn trả lời thư của anh ngay lập tức và không bao giờ viết thư trong những khoảng thời gian mà anh im lặng. Cô chỉ kiên nhẫn chờ đợi. Khi Keating nghĩ về cô, anh từng cảm thấy chẳng có gì có thể thay thế được cô. Sau đó, khi ở New York, mặc dù có thể dễ dàng bắt xe buýt hoặc gọi điện thoại, nhưng anh lại quên cô suốt cả tháng.

Anh chưa bao giờ nghĩ – khi anh đang vội vàng tìm đến cô như bây giờ – rằng đáng lẽ anh nên báo trước về cuộc viếng thăm của mình. Anh chưa từng băn khoăn xem liệu anh có gặp cô ở nhà hay không. Anh luôn quay lại tìm cô kiểu như thế này và cô luôn ở đó. Đêm nay cũng vậy.

Cô mở cửa căn hộ tầng trên cùng của ngôi nhà tồi tàn, giả đá nâu. “Chào anh, Peter,” cô nói như thể cô vừa gặp anh ngày hôm qua.

Cô đứng trước mặt anh, quá nhỏ bé, quá gầy gò trong bộ quần áo của mình. Chiếc váy ngắn màu đen bay lật phật quanh vòng eo thon nhỏ; cổ áo sơ mi kiểu nam giới trễ nải, bị kéo lệch một bên làm lộ ra cái xương ức mỏng; cổ tay áo quá dài che lấp đôi bàn tay mảnh mai. Cô nghiêng đầu nhìn anh; mái tóc màu hạt dẻ lòa xòa đằng sau gáy, nhưng trông nó như thể được cắt ngắn ngang vai, suôn thẳng, nhẹ nhàng và bồng lên như một vầng hào quang bao quanh khuôn mặt cô. Đôi mắt cô màu xám, to và cận thị; miệng cô nở một nụ cười chậm rãi, tinh tế, và sung sướng; đôi môi rạng rỡ.

“Chào em, Katie,” anh nói.

Anh cảm thấy yên ổn. Anh thấy mình chẳng có gì phải sợ hãi – trong căn nhà này hay bất kỳ nơi nào khác bên ngoài kia. Anh đã chuẩn bị để giải thích rằng mình bận rộn đến mức nào ở New York; nhưng dường như mọi sự giải thích giờ đều trở nên không quan trọng.

“Đưa mũ cho em,” cô nói, “anh cẩn thận cái ghế đó nhé, nó không chắc chắn lắm đâu, chúng ta có những cái tốt hơn ở phòng khách, anh vào đi.”

Phòng khách – anh nhận thấy – thật khiêm nhường nhưng không hiểu sao lại sang trọng và có thẩm mỹ một cách đáng kinh ngạc. Anh để ý những quyển sách; những giá sách rẻ tiền cao đến tận trần phòng, đựng đầy những tập sách quý; những tập sách không được sắp xếp cẩn thận, có vẻ là đang được đọc. Anh thấy trên một cái bàn ngăn nắp, tồi tàn, một bản khắc của Rembrandt[4] đã ngả màu vàng, có lẽ là được tìm thấy ở một cửa hàng đồ cũ nào đó bởi đôi mắt của một người am hiểu nghệ thuật – người này chắc chắn là chưa từng có ý định chia tay với bản khắc này mặc dù giá cả của nó hiển nhiên là sẽ đỡ đần cho cuộc sống của người đó rất nhiều. Anh băn khoăn không biết chú cô làm việc trong lĩnh vực nào; nhưng anh chẳng bao giờ hỏi.

Anh đứng lơ đãng nhìn căn phòng. Anh cảm thấy sự hiện diện của cô sau lưng mình và tận hưởng cảm giác yên ổn mà hiếm khi anh có. Sau đó anh quay lại và nắm lấy cánh tay cô rồi hôn cô. Đôi môi cô chạm vào môi anh khẽ khàng và chờ đợi; cô không hề có vẻ sợ sệt hoặc phấn khích; cô quá hạnh phúc để có thể chấp nhận nụ hôn theo bất kỳ cách nào ngoài việc coi nó như một điều hiển nhiên.

“Chúa ơi, anh nhớ em quá!” anh thốt lên và lập tức hiểu rằng anh quả thực đã rất nhớ cô, nhớ hàng ngày kể từ lần cuối cùng anh gặp cô; mà hơn thế, có lẽ anh đã nhớ cô vào chính những lúc mà anh không hề nghĩ đến cô.

“Anh chẳng thay đổi gì nhiều,” cô nói. “Trông anh gầy đi một chút. Như thế hợp hơn đấy. Anh sẽ rất hấp dẫn khi anh 50 tuổi, Peter ạ.”

“Nghe không giống một lời khen nhỉ – nếu mà anh suy diễn.”

“Sao ạ? Ồ, anh cho là em nghĩ bây giờ anh không hấp dẫn phải không? Ồ, không, anh rất hấp dẫn.”

“Em không nên nói thẳng như thế với anh.”

“Tại sao không? Anh biết anh hấp dẫn. Nhưng em đang tưởng tượng trông anh sẽ thế nào khi 50 tuổi. Tóc mai của anh sẽ bạc, và anh sẽ mặc một bộ ple xám – tuần trước em nhìn thấy một bộ như thế trong một cửa hàng và em nghĩ bộ đó sẽ rất hợp – và anh sẽ là một kiến trúc sư vô cùng vĩ đại.”

“Em thực sự nghĩ vậy sao?”

“Vâng.” Cô không tâng bốc anh. Dường như cô không nhận ra rằng những lời như vậy có thể mang hàm ý tâng bốc. Cô chỉ tuyên bố một thực tế chắc chắn đến nỗi không cần phải nhấn mạnh nữa.

Anh chờ đợi những câu hỏi mà anh tin chắc là sẽ đến. Nhưng thay vào đó, họ bất chợt nói chuyện về những ngày bên nhau ở Stanton, và anh cười vang, vòng tay qua đầu gối để ôm cô. Bờ vai gầy của cô dựa hẳn vào vòng tay của anh; đôi mắt cô dịu dàng và mãn nguyện. Anh nói về những bộ đồ bơi cũ của họ, về những vệt chỉ bung ra trên tất của cô, về cửa hàng kem yêu thích của họ ở Stanton, nơi họ đã có nhiều buổi tối mùa hè bên nhau – rồi anh nghĩ một cách mơ hồ rằng chuyện này thật buồn cười; anh có nhiều thứ thích đáng hơn để nói và hỏi cô; chẳng ai lại đi nói chuyện kiểu này khi đã hàng tháng trời không gặp nhau. Nhưng dường như với cô, chuyện này là bình thường; cô dường như chẳng biết đến khoảng thời gian họ xa nhau.

Cuối cùng anh là người hỏi trước:

“Em có nhận được điện của anh không?”

“À, em có. Cảm ơn anh.”

“Thế em không muốn biết là anh sống như thế nào ở thành phố này à?”

“Tất nhiên rồi. Anh sống như thế nào ở thành phố này?”

“Xem này, em không thực sự quan tâm đến chuyện này.”

“Ồ, nhưng em quan tâm mà! Em muốn biết mọi thứ về anh.”

“Thế tại sao em không hỏi?”

“Anh sẽ kể cho em khi anh muốn.”

“Những chuyện này chẳng quan trọng gì với em, đúng không?”

“Cái gì cơ?”

“Chuyện anh làm gì ấy mà.”

“Ồ... có chứ, Peter. À, không, không nhiều lắm.”

“Em thật là dễ thương quá nhỉ!”

“Nhưng mà, anh thấy đấy, thực sự là việc anh làm gì đâu có quan trọng. Chỉ có anh thôi.”

“Anh cái gì cơ?”

“Anh – ở đây. Hay anh – ở trong thành phố. Hay là anh ở nơi nào đó trên thế giới. Em không biết nữa. Chỉ vậy thôi.”

“Em biết không, em thật ngốc nghếch, Katie ạ. Em vụng quá.”

“Em vụng?”

“Ừ, vụng lắm. Em không thể nói với một người đàn ông một cách không ngượng ngùng rằng em thật sự điên lên vì anh ta như vậy.”

“Nhưng đúng vậy mà.”

“Nhưng em không thể nói như vậy được. Đàn ông sẽ không còn để ý đến em đâu.”

“Nhưng em không muốn đàn ông để ý đến em.”

“Em muốn anh để ý đến em, có phải không?”

“Nhưng anh để ý đến em mà, đúng không?”

“Anh để ý,” anh nói và ghì chặt cô trong đôi tay mình. “Quỷ tha ma bắt. Anh còn ngốc hơn cả em.”

“Ồ, thế là mọi chuyện hoàn toàn ổn” cô nói và lùa các ngón tay vào mái tóc anh, “phải không anh?”

“Mọi việc luôn luôn ổn – thế mới buồn cười... Nhưng mà này, anh muốn kể cho em về những chuyện đã xảy ra với anh vì chúng rất quan trọng...”

“Em rất muốn nghe.”

“Em biết đấy, anh đang làm việc cho hãng Francon
Suối Nguồn (The Fountainhead)
Chương 04 part 3

Cô nhỏm dậy và đứng trong vòng tay anh, mặt anh khuất ngang hông cô; cô vừa vuốt mái tóc anh vừa cúi xuống nhìn anh.

“Được rồi, Peter. Em nghĩ là em hiểu. Anh không phải gặp chú ấy cho đến khi anh muốn. Chỉ cần nói với em khi nào anh muốn gặp chú ấy thôi. Anh có thể lợi dụng em nếu anh cần phải làm vậy. Không sao đâu. Nó sẽ chẳng làm thay đổi bất kỳ cái gì.”

Khi anh ngẩng đầu lên, cô đang cười khẽ

“Anh đã làm việc vất vả quá, Peter à. Anh mệt mỏi rồi. Em pha cho anh một tách trà nhé?”

“Ừ, anh quên mất, tối nay anh đã không ăn tối. Không có thời gian.”

“Chà, anh thế đấy, quên cái gì chứ lại quên ăn tối! Thật là tồi tệ kinh khủng! Đi vào bếp ngay, để em xem có thể làm cho anh cái gì ăn được!”

Anh rời khỏi nhà cô hai tiếng sau đó và anh bước đi với cảm giác nhẹ nhõm, sạch sẽ, hạnh phúc, mọi sợ hãi đã bị lãng quên, cả Toohey và Francon cũng bị lãng quên. Anh chỉ nghĩ đến việc anh đã hứa sẽ quay lại vào ngày mai và đó là một khoảng thời gian chờ đợi dài đến mức không chịu nổi. Cô vẫn đứng ở cửa ra vào, sau khi anh đã đi, bàn tay cô đặt trên nắm đấm cửa mà anh đã chạm vào và cô nghĩ rằng anh có thể đến vào ngày mai – hoặc sau ba tháng nữa.

*

*   *

“Tối nay, khi cậu xong việc” Henry Cameron nói, “tôi muốn gặp cậu trong văn phòng của tôi.”

“Vâng,” Roark trả lời.

Cameron quay gót đột ngột và đi ra khỏi phòng thiết kế. Đó là câu nói dài nhất mà ông nói với Roark trong một tháng qua.

Roark đã đến căn phòng này mỗi buổi sáng, làm công việc của mình và không nghe thấy bất kỳ lời bình luận nào. Cameron sẽ bước vào phòng thiết kế và đứng sau lưng Roark, nhìn qua vai anh một lúc lâu. Cứ như thể ông đang chủ ý dùng sức tập trung của đôi mắt để đẩy cái bàn tay đang đều đặn vẽ ra khỏi mặt giấy. Hai nhân viên thiết kế còn lại hẳn sẽ không thể vẽ, dù họ chỉ cần tưởng tượng Cameron đứng đằng sau họ. Roark thì dường như không hề bận tâm đến chuyện đó. Anh tiếp tục vẽ, bàn tay anh không hề vội vã; anh nhẩn nha vứt cái bút chì đã cùn đi và cầm một cái khác lên. “Ừ, hừm,” Cameron sẽ đột ngột gầm gừ. Lúc ấy, Roark sẽ quay đầu lại, chăm chú một cách lịch sự. “Có chuyện gì vậy?” anh sẽ hỏi. Cameron sẽ quay ra mà không nói lời nào, đôi mắt nheo nheo khinh khỉnh của ông thể hiện rằng việc trả lời là không cần thiết; ông cứ thế rời khỏi phòng thiết kế. Roark lại sẽ tiếp tục với bản vẽ của mình.

“Tình hình có vẻ gay đây.” Loomis, anh chàng vẽ thiết kế trẻ tuổi thì thầm với Simpson, người đồng nghiệp già của mình. “Bố già không thích anh ta. Cháu không nghĩ lỗi hoàn toàn tại anh ta. Rồi anh ta sẽ không ở đây lâu đâu.”

Simpson đã già yếu và vô dụng; ông ta đã sống sót từ thời Cameron có văn phòng chiếm cả ba tầng lầu; ông vẫn trụ lại với Cameron mà không hiểu tại sao. Loomis còn trẻ, với khuôn mặt của một kẻ bán tạp hóa thô kệch; anh ta ở đây vì anh ta đã bị nhiều nơi khác sa thải.

Cả hai đều không thích Roark. Anh thường không được ưa thích, ngay từ cái nhìn đầu tiên, ở bất kỳ nơi nào mà anh đến. Khuôn mặt anh khép kín như cửa ra vào một cái két an toàn; những thứ được khóa trong các két an toàn đều có giá trị; nhưng chẳng ai buồn để ý đến điều này. Anh lạnh lùng, lặng lẽ khi có mặt trong phòng; sự hiện diện của anh có một tính chất kỳ lạ: nó vừa làm cho người ta biết về sự hiện diện ấy, lại vừa làm cho người ta cảm thấy anh không có ở đó; hoặc có lẽ là anh ở đó còn họ thì không.

Sau giờ làm, anh đi bộ một quãng đường dài để về nhà – một chung cư gần sông Đông. Anh đã chọn chung cư đó vì, với 2 đô la và 50 xu, người ta để cho anh sử dụng toàn bộ tầng áp mái – một căn phòng khổng lồ từng được dùng để chứa đồ: nó không có trần và các khe hở giữa các xà nhà tạo thành những chỗ dột trên mái. Nhưng nó có một hàng cửa sổ dài dọc theo hai bên tường, một số ô cửa được lắp kính, một số khác thì được chèn bằng bìa các tông và các cửa sổ nhìn xuống một bên là dòng sông còn bên kia là thành phố.

Cách đây một tuần Cameron đã vào phòng thiết kế và ném lên bàn của Roark một bản phác thảo thô về một biệt thự ở nông thôn. “Xem cậu có thể làm được một ngôi nhà từ cái này không!” ông nói giật giọng rồi biến mất mà không giải thích gì thêm. Ông đã không đến gần bàn vẽ của Roark trong những ngày tiếp theo. Tối qua, Roark đã hoàn thành các bản vẽ và để chúng trên bàn của Cameron. Sáng hôm nay, Cameron đi vào, ném cho Roark một số phác thảo các kết cấu cốt thép, ra lệnh cho anh có mặt ở văn phòng của ông sau giờ làm việc. Ông không bước vào phòng thiết kế từ lúc đó cho đến hết ngày.

Những người khác đã về hết. Roark cầm lên một tấm vải dầu cũ phủ lên bàn làm việc của mình và đi vào phòng của Cameron. Các bản vẽ biệt thự nông thôn của anh được trải rộng trên bàn làm việc. Ánh sáng của ngọn đèn chiếu lên má của Cameron và trên bộ râu quai nón của ông khiến những sợi râu màu trắng ánh lên. Ánh sáng rọi vào nắm tay ông và vào một góc của bản vẽ – những nét chì đen trên bản vẽ sáng lên và rắn rỏi như thể được khắc lên giấy.

“Cậu đã bị sa thải,” Cameron nói.

Roark đứng ở giữa phòng, trọng lượng cơ thể anh dồn lên một chân, hai cánh tay buông lỏng theo người, một bên vai nhô lên.

“Tôi ấy à?” anh hỏi khẽ, người bất động.

“Lại đây” Cameron nói. “Ngồi xuống.”

Roark tuân theo.

“Cậu quá giỏi,” Cameron nói. “Cậu quá giỏi đối với những thứ mà cậu muốn làm với bản thân mình. Chẳng có ích gì đâu, Roark ạ. Bây giờ sẽ tốt hơn là để quá muộn.”

“Ý ông là sao?’

“Chẳng có ích gì khi phí phạm những cái mà cậu có ột lý tưởng mà cậu sẽ không bao giờ đạt được, và họ sẽ không bao giờ để cho cậu đạt được. Chẳng có ích gì khi đem cái tài năng tuyệt vời mà cậu có đó ra để làm ra một cái giá tra tấn cho chính cậu đi. Bán nó đi, Roark. Bán đi, ngay bây giờ. Dĩ nhiên là nó sẽ khác, nhưng cậu có đủ. Cậu có cái mà họ sẽ trả tiền, và trả rất nhiều tiền, nếu cậu sử dụng nó theo cách của họ. Chấp nhận bọn họ, Roark. Hãy thỏa hiệp. Thỏa hiệp ngay bây giờ, vì rồi đằng nào cậu cũng sẽ phải làm như vậy; chỉ có điều là lúc ấy thì cậu đã trải qua quá nhiều chuyện mà cậu ước cậu không phải trải qua. Cậu không biết. Tôi thì biết. Hãy cứu bản thân cậu khỏi điều đó. Hãy bỏ tôi. Đến làm cho người khác đi.”

“Ông có làm thế không?”

“Cậu là đồ kiêu căng chết dẫm! Cậu cho rằng tôi nghĩ cậu giỏi như ai? Tôi có bảo cậu so sánh bản thân cậu với...” Ông ngừng lời vì ông thấy Roark đang mỉm cười.

Ông nhìn Roark và bất chợt mỉm cười thay cho câu trả lời – đấy là nụ cười đau đớn nhất Roark từng thấy.

“Không, hử,” Cameron nói khẽ “nói thế không có tác dụng, hử? Không, sẽ không có tác dụng gì... Thôi được, cậu đã đúng. Cậu giỏi đúng như cậu nghĩ. Nhưng tôi muốn nói chuyện với cậu. Tôi không biết chính xác phải nói thế nào. Tôi đã mất thói quen nói chuyện với những người như cậu. Mà mất à? Có lẽ tôi chưa từng có thói quen ấy. Có lẽ điều này đang làm tôi thấy sợ. Cậu sẽ cố gắng hiểu tôi chứ?”

“Tôi hiểu. Tôi nghĩ là ông đang phí thời gian.”

“Đừng thô lỗ thế. Vì tôi không thể thô lỗ với cậu vào lúc này. Tôi muốn cậu lắng nghe. Cậu có thể lắng nghe và không trả lời tôi không?”

“Có. Tôi xin lỗi. Tôi không có ý thô lỗ.”

“Cậu thấy đấy, trong tất cả mọi người, đáng lẽ tôi phải là người cuối cùng mà cậu nên gặp. Tôi sẽ phạm tội nếu tôi giữ cậu ở đây. Lẽ ra phải có ai đó cảnh báo với cậu về tôi. Tôi sẽ không giúp được cậu một tí nào. Vì tôi sẽ không ngăn cản cậu. Tôi sẽ không dạy cậu những lý lẽ thông thường. Thay vào đó tôi sẽ ép cậu. Tôi sẽ bắt cậu theo đuổi con đường mà cậu đang đi. Tôi sẽ bắt cậu cứ là chính cậu như bây giờ; và tôi sẽ làm cho cậu tồi tệ hơn nữa... Cậu không thấy à? Trong một tháng nữa, tôi sẽ không thể để cậu đi. Tôi không chắc hiện giờ tôi có thể. Thế nên, đừng tranh cãi với tôi; đi đi. Đi đi khi cậu còn có thể.”

“Nhưng tôi có thể đi sao? Ông không nghĩ là đã quá muộn đối với cả hai chúng ta sao? Đối với tôi thì đã quá muộn từ cách đây mười hai năm rồi.”

“Hãy cố, Roark. Hãy cố gắng suy nghĩ hợp lý một lần xem nào. Có rất nhiều kẻ nổi tiếng sẵn sàng nhận cậu, dù cậu có bị đuổi học hay không, nếu tôi giới thiệu cậu. Họ có thể cười nhạo tôi trong lúc tào lao vào giờ ăn trưa, nhưng họ ăn cắp của tôi khi cần, và họ biết tôi luôn nhận ra người làm thiết kế giỏi. Tôi sẽ viết thư giới thiệu cậu với Guy Francon. Hắn từng làm việc cho tôi một lần, lâu lắm rồi. Tôi nghĩ là tôi đã sa thải hắn nhưng điều đó chẳng sao cả. Đến chỗ hắn làm đi. Ban đầu cậu sẽ không thích đâu, nhưng rồi cậu sẽ quen. Và nhiều năm nữa, cậu sẽ cảm ơn tôi vì điều này.”

“Tại sao ông lại nói với tôi những chuyện này? Ông đâu muốn nói những chuyện này. Ông cũng đâu có làm những chuyện này.”

“Đó chính là lý do tại sao tôi đang nói! Bởi vì tôi đã không làm những chuyện đó!... Nghe này, Roark, có một điều về cậu, điều mà tôi sợ. Nó không chỉ là loại công việc mà cậu làm; tôi sẽ không bận tâm nếu như cậu lại là một kẻ khoa trương khác người, giống như những kẻ làm ra vẻ khác người chỉ để hù dọa hay để bỡn cợt, để thu hút sự chú ý về mình. Cái trò đấy là một trò khôn – giả vờ làm khác đám đông đi, để họ tò mò, rồi thu tiền vé vào cửa. Nếu cậu làm như vậy, thì tôi không lo lắm. Nhưng mà không phải thế. Cậu say mê công việc của cậu! Chúa phù hộ cho cậu, cậu say mê công việc của cậu! Và đấy là một lời nguyền. Nó là cái mác dán trên trán cậu mà tất cả mọi người đều thấy. Cậu yêu công việc của cậu và họ biết điều này, và họ biết rằng họ tóm được cậu. Cậu có bao giờ nhìn những người trên phố không? Cậu có sợ họ không? Tôi thì sợ. Họ đi lướt qua cậu; họ đội mũ và mang vác lỉnh kỉnh. Nhưng đó không phải là vật chất tạo nên họ. Cái tạo nên họ là sự căm thù với bất kỳ người nào say mê công việc của anh ta. Đó là loại người mà họ sợ. Tôi không biết tại sao. Roark, cậu đang mở toang bản thân cậu cho bọn họ thấy.”

“Nhưng tôi chẳng bao giờ nhận thấy những người đi trên phố.”

“Thế cậu có nhận thấy điều mà họ đã làm với tôi không?”

“Tôi chỉ thấy rằng ông không sợ họ. Tại sao ông lại yêu cầu tôi phải sợ?”

“Đấy chính là lý do tại sao tôi yêu cầu cậu!” Ông vươn người về phía trước, các nắm tay khép trên bàn trước mặt ông. “Roark, cậu có muốn tôi nói toẹt ra không? Cậu thật độc ác. Được rồi, tôi sẽ nói: cậu có muốn có kết cục như thế này không? Cậu có muốn trở thành người như tôi không?”

Roark đứng dậy; người anh che mất một phần ánh sáng chiếu lên bàn. Roark nói:

“Nếu vào lúc cuối đời, tôi trở thành người như ông vào lúc này, tại đây, trong văn phòng này, thì tôi sẽ coi nó như một vinh dự mà tôi lẽ ra không xứng đáng.”

“Ngồi xuống!” Cameron gầm lên. “Tôi không thích những trò tuồng!”

Roark nhìn xuống người mình, rồi nhìn xuống bàn, và ngạc nhiên thấy mình đang đứng. Anh nói: “Tôi xin lỗi. Tôi không biết là tôi đã đứng lên.”

“Thôi được, ngồi xuống. Nghe này. Tôi hiểu. Và cậu đã rất tử tế. Nhưng cậu không biết. Tôi tưởng rằng một vài ngày ở đây là đủ để lấy đi sự sùng bái người hùng trong cậu. Tôi nhận thấy là không được. Bây giờ, cậu đang tự nhủ rằng ông già Cameron thật vĩ đại, ông ta là một chiến binh cao quý, một kẻ dám chết ột sự nghiệp đã mất; và cậu muốn được chết trên chiến hào với tôi, muốn ăn trong các toa xe ăn trưa tối tăm cùng với tôi cho đến hết đời. Tôi biết, bây giờ mọi thứ trông thánh thiện và tuyệt đẹp đối với cậu, ở cái tuổi 22 vĩ đại của cậu. Nhưng cậu có biết nó thực sự thế nào không? Ba mươi năm ột sự nghiệp đã mất, nghe thật tuyệt vời phải không? Nhưng cậu có biết ba mươi năm có bao nhiêu ngày không? Cậu có biết điều gì xảy ra trong những ngày đó không? Roark! Cậu có biết điều gì xảy ra không?”

“Ông không muốn nói về điều đó.”

“Không! Tôi không muốn nói về điều đó! Nhưng tôi sẽ nói. Tôi muốn cậu nghe. Tôi muốn cậu biết những cái sắp đến với cậu. Sẽ có những ngày cậu nhìn đôi bàn tay mình và cậu muốn cầm lấy một cái gì đó để nghiền nát mọi cái xương bên trong, vì chúng sẽ khiêu khích cậu bởi những cái chúng có thể làm, nếu cậu tìm được một cơ hội cho chúng làm; nhưng cậu lại không có một cơ hội như thế và cậu không thể chịu đựng nổi chính cơ thể sống của cậu bởi vì cái cơ thể sống ấy đã lừa dối đôi tay cậu. Sẽ có những ngày mà người lái xe buýt tóm lấy cậu khi cậu lên xe và anh ta chỉ đòi có mười xu, nhưng đó sẽ không phải là điều mà cậu nghe được; cậu sẽ nghe được rằng cậu chẳng là cái gì cả, cậu sẽ thấy anh ta cười nhạo cậu, cậu sẽ cảm thấy trán cậu in rành rành cái điều mà người ta căm ghét cậu. Sẽ có những ngày mà cậu đứng trong góc của một hội trường và lắng nghe một sinh vật trên diễn đàn nói về các tòa nhà, về cái công việc mà cậu yêu thích và những điều hắn nói sẽ khiến cậu mong một người nào đó sẽ đứng lên và dùng hai ngón tay cái bóp nát hắn ra; nhưng rồi cậu sẽ chỉ nghe mọi người vỗ tay tán thưởng hắn và cậu sẽ muốn gào lên, bởi vì cậu không hiểu họ hay cậu mới là có thực, liệu có phải cậu đang ở trong một căn phòng đầy những cái sọ rỗng tuếch, hay là ai đó đã tẩy rỗng đầu óc cậu; và rồi cậu sẽ chẳng nói gì vì những âm thanh mà cậu phát ra – chúng không phải là ngôn ngữ của căn phòng đó; nhưng kể cả nếu cậu muốn nói, thì cậu cũng sẽ không nói được bởi vì người ta sẽ đẩy cậu ra rìa, vì cậu chẳng có gì để nói với họ về các tòa nhà! Đó có phải là điều cậu muốn không?”

Roark ngồi yên, ánh điện đổ những cái bóng gồ ghề trên mặt anh – một vệt đen hình chữ V trên cái má hõm sâu, một hình tam giác dài màu đen cắt ngang cằm anh và ánh mắt anh hướng về Cameron.

“Chưa đủ hả?” Cameron hỏi. “Thôi được. Rồi một ngày nào đó cậu sẽ thấy trên một mảnh giấy trước mặt cậu một tòa nhà sẽ làm cậu muốn quỳ xuống; cậu sẽ không tin rằng cậu đã làm ra nó, nhưng cậu đã làm ra nó; rồi cậu sẽ nghĩ rằng trái đất đẹp tuyệt và không khí tràn đầy hương vị của mùa xuân và cậu yêu tất cả mọi người vì chẳng có ác quỷ nào trên thế giới này. Và cậu sẽ khởi hành từ ngôi nhà của cậu với bản vẽ này, để xin được xây nó, vì cậu sẽ không hề nghi ngờ rằng người đầu tiên nhìn thấy nó sẽ cho xây nó. Nhưng cậu sẽ không đi xa khỏi ngôi nhà của cậu. Vì cậu sẽ bị chặn lại ở cửa ra vào bởi một người đến để tắt khóa gas. Cậu không có nhiều đồ ăn vì cậu đã dành dụm tiền để hoàn thành bản thiết kế, nhưng cậu vẫn phải nấu nướng một cái gì đó và cậu đã không trả tiền gas... Tất nhiên, chuyện đó chẳng là cái gì cả, cậu có thể cười nhạo vào điều đó. Nhưng cuối cùng cậu sẽ đến văn phòng của một người với bản thiết kế của cậu và cậu sẽ nguyền rủa bản thân vì thân thể cậu đã chiếm dụng quá nhiều khoảng không của ông ta và cậu sẽ cố thu mình khuất khỏi tầm mắt của ông ta để ông ta chỉ nghe thấy giọng nói khẩn khoản, cầu xin của cậu, giọng cậu liếm vào đầu gối của ông ta; cậu sẽ ghê tởm chính bản thân mình vì điều đó, nhưng cậu không quan tâm, chỉ cần ông ta để cho cậu xây dựng tòa nhà đó thì cậu sẽ không quan tâm, cậu sẽ muốn xé toang lục phủ ngũ tạng của cậu để bày ra cho ông ta xem vì nếu ông ta nhìn thấy chúng thì ông ta sẽ để cho cậu xây dựng tòa nhà này. Nhưng ông ta sẽ nói rằng ông ta rất xin lỗi, chỉ vì việc thiết kế đã được giao cho Guy Francon rồi. Và cậu sẽ đi về nhà và cậu có biết cậu sẽ làm gì ở đó không? Cậu sẽ khóc. Cậu sẽ khóc như một mụ đàn bà, như một kẻ nát rượu, như một con thú. Đó là tương lai của cậu, Howard Roark. Giờ thì cậu có muốn điều đó không?”

“Có,” Roark trả lời.

Đôi mắt của Cameron cụp xuống; rồi đầu ông hơi cúi xuống, rồi cúi thêm chút nữa; đầu ông cúi xuống một cách chậm rãi với những cái gật đầu dài và giật cục rồi ngừng lại; ông ngồi lặng yên, hai vai ông căng lên, hai cánh tay khoanh lại trong lòng.

“Howard” – Cameron thì thầm – “Tôi chưa từng nói điều này với bất kỳ ai...”

“Cảm ơn ông...” Roark nói.

Một lúc lâu sau, Cameron ngẩng đầu lên.

“Giờ thì về nhà đi,” Cameron nói với giọng bình thản. “Gần đây cậu đã làm việc quá nhiều. Và cậu sẽ có một ngày vất vả.” Ông chỉ vào bản vẽ cái biệt thự ở nông thôn. “Đây là bản thiết kế tốt và tôi đã muốn xem cậu thiết kế, nhưng nó chưa đủ tốt để có thể xây. Cậu sẽ phải làm lại nó. Tôi sẽ chỉ cho cậu cái mà tôi muốn vào ngày mai.”

[1] Trong đoạn này, tác giả chủ ý dùng từ ngữ và cách diễn đạt cầu kỳ, rối rắm, thậm chí có chỗ vô nghĩa để làm nổi bật tính rỗng tuếch trong bài phê bình của Toohey. Chúng tôi cố gắng dịch rối rắm để trung thành với tinh thần của nguyên bản. (NHĐ)

[2] Một khu vực ở thành phố New York. (NHĐ)

[3] Đây là kiểu xe buýt hai tầng, trên nóc xe mở ra và có ghế ngồi cho khách tham quan có thể nắm đường phố xung quanh. (NHĐ)

[4] Danh họa người  Hà  Lan. (NHĐ)

[5] Nguyên văn “T-Square Romeo”, nghĩa là chàng Romeo dùng thước chữ T. Thước chữ T là loại thuốc chuyên dụng của dân kiến trúc. (NHĐ)