08-24-2011, 10:58 AM
Dân tộc Trung Hoa tự hào về sắc đẹp của những người phụ nữ trong lịch sử thông qua hình ảnh của "tứ đại mỹ nhân" với những vẻ đẹp riêng như Tây Thi – "trầm ngư", Điêu Thuyền – "bế nguyệt", Chiêu Quân – "lạc nhạn", Dương Quý Phi – "tu hoa, tất cả họ đều có những ảnh hưởng lớn đối với lịch sử Trung Hoa. Nhưng nếu nhìn lại lịch sử nước ta, dân tộc ta cũng có những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, nổi bật nhất trong số đó phải kể đến bốn giai nhân được xem là "tứ đại mỹ nhân" của dân tộc ta. Đó là Nguyên phi Ỷ Lan, Huyền Trân Công Chúa, Tuyên Phi Đặng Thị Huệ và Nam Phương Hoàng Hậu.
*
1. Nguyên Phi Ỷ Lan – giai nhân thay vua trị nước, an dân.
Nguyên Phi Ỷ Lan tương truyền có tên là Lê Thị Khiết, ngoài ra bà còn có tên Lê Thị Yến, Lê Thị Yến Loan (giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho biết đó chỉ là cách phiên âm từ tên Ỷ Lan). Theo tài liệu truyện thơ của Trương Thị Ngọc Trong, một cung tần của chúa Trịnh Cương thì bà có tên là Lê Khiết Nương. Bà được cho là sinh ngày 7 tháng 3 năm 1044, 19 tháng 2 âm lịch năm Giáp Thân). Một tài liệu khác cho rằng năm sinh của Ỷ Lan không rõ, sử sách chỉ ghi: Bà mất ở kinh thành Thăng Long vào năm 1117 - trên dưới 70 tuổi - thời Lý Nhân Tông. Sách Mộng khê bút đàm của Thẩm Hoạt có chép nguyên quán của bà ở Thổ Lỗi (tên khác là làng Sủi sau đổi thành làng Siêu Loại) nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội. Bà xuất thân trong một gia đình nông dân làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm. Cha là ông Lê Công Thiết, mẹ là bà Vũ Thị Tình. Năm bà 12 tuổi thì mẹ mất. Hai năm sau Lê Công Thiết lấy một người con gái họ Đồng làm vợ kế, nhưng vì mẹ kế không thương nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong chuyện cổ. Sử ghi, Ỷ Lan là cô Tấm lộ Bắc, hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) là đền thờ Bà Tấm là vì thế.
Câu chuyện Ỷ Lan vào cung vua Lý, đó là một giai thoại người người đều nghe, đều biết.
Thuở ấy vào năm Quý Mão (1063), Lý Thánh Tông đã đến bốn mươi tuổi. Vua chưa có con trai để truyền ngôi báu, đêm ngày triều thần lo ngại. Vua bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không hiệu nghiệm, Lý Thánh Tông lo lắng cho triều đình nhà Lý và xã tắc Đại Việt. Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương Quang, phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Thánh Tông hoàng đế cùng hòa vào dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước vua. Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy chỉ cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu cạnh gốc lan, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình. Cô gái vẫn miệt mài bên bãi dâu, mặc cho đoàn ngự diễu đi qua. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ "kiêu căng" đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Vua ngồi trên kiệu trông thấy lấy làm lạ, truyền gọi lại hỏi, người con gái ứng đối trôi chảy mạch lạc, vẻ mặt đẹp như hoa không có vẻ gì sợ hãi.
Qua câu chuyện, Vua Lý hết sức chú ý đến giọng nói thanh thoát như tiếng chuông của cô ta, và khi Vua tỏ lời khen, thì nàng mỉm cười mà hát một câu hát như sau:
Người thanh thì tiếng cũng thanh
Chuông kêu đánh ở góc đình cũng kêu.
Vua thấy cô gái ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ đoan trang dịu dàng, lời lời phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa khác hẳn những người con gái mà vua đã từng gặp. Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Sau đó, vua phong cho Ỷ Lan làm phu nhân.
Năm Bính Ngọ (1066), Ỷ Lan sinh hạ được một hoàng tử lấy tên Càn Đức. Càn Đức tỏ ra thông minh ngay từ nhỏ, vua rất yêu mến, sau đó vua phong cho Ỷ Lan làm nguyên phi - đứng đầu các cung phi, chỉ sau thái hậu; con trai được lập làm thái tử.
Một lần nọ vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước. Ỷ Lan tâu: Muốn nước giàu dân mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hoá dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, Hoàng đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch.
Nghe Ỷ Lan tâu, vua phục lắm. Bởi thế, năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân cầm quân đi đánh giặc, đã trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng ngay năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan âm, lập bàn thờ Ỷ Lan. Vua đánh giặc lâu không thắng, chán nản, bèn trao binh quyền lại cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Dương) hay tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua muôn trùng khó khăn, giữ cảnh thái bình, thịnh trị, vua Thánh Tông hổ thẹn, tự trách mình: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là đàn ông há thua sao!"
Vua lại tiếp tục trở ra đánh giặc, lần này thắng trận đại thắng trở về. Năm đó, mùa hạ vua đem quân về ca khúc khải hoàn, đại xá cho thiên hạ, giảm thuế khóa, phát tiền, lụa, thóc cho dân nghèo. Ỷ Lan rất nhân từ dạy con ngoan, đào tạo con trở thành một nhà vua anh minh sau này; lại lo cho dân giàu nước mạnh, yêu thương nhân dân được mọi người kính phục.
Năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể tướng thì nước Đại Việt lại khởi sắc, nhanh chóng thịnh cường. Ỷ Lan đã thi hành những biện pháp trị nước yên dân, khiến cho thế nước và sức dân đã mạnh hẳn lên.
Năm Đinh Tị (1077), Tống triều phát đại binh sang xâm lược Đại Việt. Để Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc, Thái hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, mời Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao chức Thái sư như cũ, để cùng mình điều khiển triều đình, huy động sức người sức của vào trận. Nhờ vậy, nước Đại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách. Quân giặc hùng hổ toan làm cỏ nước Đại Việt đã phải cam chịu thất bại, lủi thủi rút quân về nước.
Thái hậu Ỷ Lan đã góp công lớn vào chiến thắng này. Như vậy, qua hai lần nhiếp chính Ỷ Lan đã thể hiện được tài năng và đức độ của mình, lần lượt đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiến lên vững mạnh.
Nhưng trong đời Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bà đã bắt giam Thượng Dương Thái Hậu cùng 76 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Vì tội trạng ấy, sử sách phong kiến đã xóa sạch mọi công lao của bà đối với dân nước, mà quên mất rằng, trong sự nghiệp làm chính trị, đó là chuyện thường thấy.
Sống trong lầu son, gác tía mà lúc nào Ỷ Lan cũng không quên đến người nghèo, Ỷ Lan vẫn chăm sóc đến đời sống cùng cực của người dân lao động. Cũng như Lý Thánh Tông, Ỷ Lan thường phát chẩn thóc lúa cho kẻ nghèo. Bà sùng đạo Phật, ưa làm việc từ thiện lập nhiều đình chùa.
Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), Hội tường đại khánh năm thứ 8 đời Lý Nhân Tông, bà mất, được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức. Hiện nay còn miếu thờ bà ở hai xã Cẩm Đới và Cẩm Cầu huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Nguyên Phi Ỷ Lan được người đời sau liệt vào "tứ đại mỹ nhân" của đất Việt.
************************
VÌ LỊCH SỬ VIỆT NAM
*
1. Nguyên Phi Ỷ Lan – giai nhân thay vua trị nước, an dân.
Nguyên Phi Ỷ Lan tương truyền có tên là Lê Thị Khiết, ngoài ra bà còn có tên Lê Thị Yến, Lê Thị Yến Loan (giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho biết đó chỉ là cách phiên âm từ tên Ỷ Lan). Theo tài liệu truyện thơ của Trương Thị Ngọc Trong, một cung tần của chúa Trịnh Cương thì bà có tên là Lê Khiết Nương. Bà được cho là sinh ngày 7 tháng 3 năm 1044, 19 tháng 2 âm lịch năm Giáp Thân). Một tài liệu khác cho rằng năm sinh của Ỷ Lan không rõ, sử sách chỉ ghi: Bà mất ở kinh thành Thăng Long vào năm 1117 - trên dưới 70 tuổi - thời Lý Nhân Tông. Sách Mộng khê bút đàm của Thẩm Hoạt có chép nguyên quán của bà ở Thổ Lỗi (tên khác là làng Sủi sau đổi thành làng Siêu Loại) nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội. Bà xuất thân trong một gia đình nông dân làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm. Cha là ông Lê Công Thiết, mẹ là bà Vũ Thị Tình. Năm bà 12 tuổi thì mẹ mất. Hai năm sau Lê Công Thiết lấy một người con gái họ Đồng làm vợ kế, nhưng vì mẹ kế không thương nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong chuyện cổ. Sử ghi, Ỷ Lan là cô Tấm lộ Bắc, hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) là đền thờ Bà Tấm là vì thế.
Câu chuyện Ỷ Lan vào cung vua Lý, đó là một giai thoại người người đều nghe, đều biết.
Thuở ấy vào năm Quý Mão (1063), Lý Thánh Tông đã đến bốn mươi tuổi. Vua chưa có con trai để truyền ngôi báu, đêm ngày triều thần lo ngại. Vua bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không hiệu nghiệm, Lý Thánh Tông lo lắng cho triều đình nhà Lý và xã tắc Đại Việt. Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương Quang, phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Thánh Tông hoàng đế cùng hòa vào dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước vua. Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy chỉ cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu cạnh gốc lan, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình. Cô gái vẫn miệt mài bên bãi dâu, mặc cho đoàn ngự diễu đi qua. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ "kiêu căng" đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Vua ngồi trên kiệu trông thấy lấy làm lạ, truyền gọi lại hỏi, người con gái ứng đối trôi chảy mạch lạc, vẻ mặt đẹp như hoa không có vẻ gì sợ hãi.
Qua câu chuyện, Vua Lý hết sức chú ý đến giọng nói thanh thoát như tiếng chuông của cô ta, và khi Vua tỏ lời khen, thì nàng mỉm cười mà hát một câu hát như sau:
Người thanh thì tiếng cũng thanh
Chuông kêu đánh ở góc đình cũng kêu.
Vua thấy cô gái ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ đoan trang dịu dàng, lời lời phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa khác hẳn những người con gái mà vua đã từng gặp. Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Sau đó, vua phong cho Ỷ Lan làm phu nhân.
Năm Bính Ngọ (1066), Ỷ Lan sinh hạ được một hoàng tử lấy tên Càn Đức. Càn Đức tỏ ra thông minh ngay từ nhỏ, vua rất yêu mến, sau đó vua phong cho Ỷ Lan làm nguyên phi - đứng đầu các cung phi, chỉ sau thái hậu; con trai được lập làm thái tử.
Một lần nọ vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước. Ỷ Lan tâu: Muốn nước giàu dân mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hoá dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, Hoàng đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch.
Nghe Ỷ Lan tâu, vua phục lắm. Bởi thế, năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân cầm quân đi đánh giặc, đã trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng ngay năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan âm, lập bàn thờ Ỷ Lan. Vua đánh giặc lâu không thắng, chán nản, bèn trao binh quyền lại cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Dương) hay tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua muôn trùng khó khăn, giữ cảnh thái bình, thịnh trị, vua Thánh Tông hổ thẹn, tự trách mình: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là đàn ông há thua sao!"
Vua lại tiếp tục trở ra đánh giặc, lần này thắng trận đại thắng trở về. Năm đó, mùa hạ vua đem quân về ca khúc khải hoàn, đại xá cho thiên hạ, giảm thuế khóa, phát tiền, lụa, thóc cho dân nghèo. Ỷ Lan rất nhân từ dạy con ngoan, đào tạo con trở thành một nhà vua anh minh sau này; lại lo cho dân giàu nước mạnh, yêu thương nhân dân được mọi người kính phục.
Năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể tướng thì nước Đại Việt lại khởi sắc, nhanh chóng thịnh cường. Ỷ Lan đã thi hành những biện pháp trị nước yên dân, khiến cho thế nước và sức dân đã mạnh hẳn lên.
Năm Đinh Tị (1077), Tống triều phát đại binh sang xâm lược Đại Việt. Để Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc, Thái hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, mời Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao chức Thái sư như cũ, để cùng mình điều khiển triều đình, huy động sức người sức của vào trận. Nhờ vậy, nước Đại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách. Quân giặc hùng hổ toan làm cỏ nước Đại Việt đã phải cam chịu thất bại, lủi thủi rút quân về nước.
Thái hậu Ỷ Lan đã góp công lớn vào chiến thắng này. Như vậy, qua hai lần nhiếp chính Ỷ Lan đã thể hiện được tài năng và đức độ của mình, lần lượt đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiến lên vững mạnh.
Nhưng trong đời Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bà đã bắt giam Thượng Dương Thái Hậu cùng 76 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Vì tội trạng ấy, sử sách phong kiến đã xóa sạch mọi công lao của bà đối với dân nước, mà quên mất rằng, trong sự nghiệp làm chính trị, đó là chuyện thường thấy.
Sống trong lầu son, gác tía mà lúc nào Ỷ Lan cũng không quên đến người nghèo, Ỷ Lan vẫn chăm sóc đến đời sống cùng cực của người dân lao động. Cũng như Lý Thánh Tông, Ỷ Lan thường phát chẩn thóc lúa cho kẻ nghèo. Bà sùng đạo Phật, ưa làm việc từ thiện lập nhiều đình chùa.
Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), Hội tường đại khánh năm thứ 8 đời Lý Nhân Tông, bà mất, được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức. Hiện nay còn miếu thờ bà ở hai xã Cẩm Đới và Cẩm Cầu huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Nguyên Phi Ỷ Lan được người đời sau liệt vào "tứ đại mỹ nhân" của đất Việt.
************************
VÌ LỊCH SỬ VIỆT NAM