Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN - Nguy cơ tái phát của chứng nhồi máu cơ tim

Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN

Phiên bản đầy đủ: Nguy cơ tái phát của chứng nhồi máu cơ tim
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Xem phiên bản đầy đủ với định dạng thích hợp.
Người bị mắc bệnh nhồi máu cơ tim có nguy cơ tái phát cực kỳ cao trường hợp ko được chăm sóc và trị hiệu quả sau đấy được cứu sống bằng thuốc tiêu sợi huyết, can thiệp hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ – vành. Chính vì vậy, ngay trong lúc được xử trí, người bị bệnh bắt buộc bắt buộc tuân thủ các chỉ định của thầy thuốc và buộc phải tới chứng bệnh viện liền ngay Trường hợp có một số triệu chứng tái phát.

=> Tìm hiểu viêm họng cấp



Các điều người mắc bệnh bắt buộc biết

Trước những lúc ra viện, các người bệnh nhồi máu cơ tim cấp (NMCTC) phải được giáo dục về sức khoẻ, các làm việc thể lực, chuyển đổi lối sống và việc sử dụng thuốc để chống ngừa thứ phát những căn bệnh tim mạch.

Người bị mắc bệnh và gia đình phải có bảng hướng dẫn trước trong khi ra viện về những hiện trạng của thiếu máu cơ tim, gọi xe cấp cứu trong khi các triệu chứng thiếu máu cơ tim bị lại và ko suy giảm đi hay trở thành trầm trọng hơn 5 phút sau đấy ngậm 1 viên nitroglycerin dưới lưỡi để đảm bảo chắc chắn người bị mắc bệnh sẽ được chẩn đoán và trị liệu sớm khi bệnh tái hồi.

=> Tìm hiểu thêm: viêm họng mủ



[Image: 1422592151_news.jpg]



Hầu hết người bệnh có thừa cân – béo phì bắt buộc bắt buộc thực hiện chiến lược giảm cân. buộc phải đo vòng bụng và tính chỉ số khối lượng cơ thể cho các bệnh nhân. Chỉ số khối lượng cơ thể trung bình từ 18,5 – 24,9 kg/m2. Nếu vòng bụng lớn hơn 90cm ở nam giới và hơn 80cm ở nữ giới có thể dẫn đến chứng bệnh chuyển hoá và bắt buộc nên giảm cân.

Một số người bị bệnh cần tránh tái hút thuốc lá ngay trước khi ra viện. cùng lúc phải kiểm soát huyết áp dưới 140/90mmHg (dưới 130/80mmHg ở người bị mắc bệnh đái tháo đường hay bệnh lý thận mạn tính) từ thuốc và chuyển đổi lối sống.

Thay đổi lối sống (giảm cân, chuyển đổi chế độ ăn, tăng hoạt động thể lực và ăn nhạt) buộc phải thực thi cho đa số những người bị bệnh có huyết áp to hơn hoặc bằng 120/80mmHg. ko buộc phải sử dụng thuốc chẹn kênh canxi nhóm dihydropyridin có công năng ngắn để điều trị tăng huyết áp.

Nếu bệnh nhân có mang theo đái tháo đường bắt buộc kiểm soát chặt đường huyết bằng insulin hay thuốc hạ đường huyết uống và chế độ ăn để đạt HbA1C dưới 7%. Nhóm thuốc thiazolidinedion ko bắt buộc dùng cho các người bệnh hồi phục sau NMCTC bị mắc suy tim độ III-IV.

Hormon cách với estrogen phối hợp với progestin ko bắt buộc dùng cho những người mắc bệnh mới bị mãn kinh sau NMCTC ví dụ là một liệu pháp chống ngừa thứ phát các biến cố của căn bệnh mạch vành đề cập chung.

Các người bị mắc bệnh mãn kinh đã dùng thuốc tại khoảng thời gian bị mắc NMCTC không cần tiếp tục dùng thuốc. Bởi vậy, một vài người bị bệnh đã sử dụng thuốc 1-2 năm muốn tiếp tục sử dụng thuốc vì một số chỉ định khác cần cân đề cập giữa nguy cơ và tiện lợi đem lại bằng việc sử dụng thuốc. Hormon biện pháp ko cần tiếp tục dùng trong lúc người bị bệnh cần nằm dưỡng chứng bệnh tại giường.

Vài vitamin phòng chống ôxy hoá như vitamin E, C không nên dùng cho người mắc bệnh hồi phục sau NMCTC để cản trở ngừa một vài chứng bệnh tim mạch.


Buộc phải kiểm soát nhịp tim về sau được xử trí nhồi máu.

Các chỉ định điều trị cần phải có sau nhồi máu cơ tim

Vài bệnh nhân chứng bệnh động mạch vành (ĐMV) cấp bắt buộc được theo dõi ít nhất trong 24 giờ để đánh giá nhánh ĐMV có ảnh hưởng nhồi máu được mở thông sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết, tắc lại sau can thiệp ĐMV và tìm thấy các biến chứng tái thiếu máu. Huyết áp cũng phải được theo dõi rất hay, tần suất phụ thuộc vào biểu hiện của từng bệnh nhân.

Người mắc bệnh NMCTC cần nhập viện ở đơn vị chăm sóc đặc trưng và theo dõi điện tim liên tục. Mọi người bệnh phải cho dùng aspirin (160-325mg) và heparin càng sớm càng hữu hiệu. điều trị từ thuốc chẹn bêta giao cảm và nitroglycerin, Nếu còn nhức ngực và không có phòng chống được các bác sĩ chỉ định.

Heparin trọng lượng phân tử thấp và những thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa của tiểu cầu đã khiến cho chuyển đổi đáng nhắc liệu pháp chữa bây giờ. Phối hợp các thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa với heparin và aspirin cũng khiến cho suy giảm tỷ lệ biến chứng lâm sàng (tử vong và nhồi máu cơ tim). do đó cả heparin trọng lượng phân tử thấp và ức chế thụ thể glycoprrotein IIb/IIIa chỉ định cho người mắc bệnh bệnh ĐMV cấp trong đấy có nhồi máu cơ tim có nguy cơ cao.

Phải chủ động can thiệp ĐMV sớm ở một vài người bệnh hội chứng ĐMV cấp có nguy cơ cao trừ những lúc có cản trở được chỉ định. Đối với các bệnh nhân có nguy cơ trung bình, quyết định điều trị bảo tồn hay can thiệp sớm phụ thuộc vào kinh nghiệm của người thầy thuốc và nguyện vọng của người bị mắc bệnh.

Còn đối với NMCTC có đoạn ST chênh lên thì tiêu sợi huyết vẫn là chiến lược điều trị chuẩn mực cho một vài người mắc bệnh đến viện sớm và ko có chống được các bác sĩ chỉ định, đặc thù ở Vài cơ sở y tế chưa có khả năng can thiệp ĐMV qua da cấp cứu. Bởi vậy, tái tưới máu bằng can thiệp ĐMV qua da có tiên lượng hữu hiệu hơn, đặc thù là ở các trung tâm tim mạch máu can thiệp to có thể tìm thấy rất nhiều kinh nghiệm.

Đối với điều trị tiêu sợi huyết, vấn đề cần thiết đặc biệt phải sử dụng thuốc càng sớm càng tốt sau đó khởi phát nhồi máu cơ tim. Heparin được sử dụng để bổ sung cho trị tiêu sợi huyết. vai trò ức chế ngưng tập tiểu cầu của Vài thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa làm tăng tỷ lệ mở thông nhánh ĐMV thủ phạm gây nhồi máu và duy trì mở thông một vài động mạch máu này về lâu dài.

Ngoài các được các bác sĩ chỉ định lâm sàng, còn buộc phải tính tới tính khả thi và giá thành. chọn lựa chiến lược chữa trị tái tưới máu không chỉ liên quan đến Vài tiêu chí kỹ thuật mà còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, trang thiết bị máy móc và vai trò của cơ sở y tế.

=> Tìm hiểu thêm: cách chữa viêm họng mãn tính



Cuối cùng, toàn bộ người bị mắc bệnh phải được tư vấn kỹ lưỡng để thay đổi và chữa trị một số khía cạnh nguy cơ. đông đảo người mắc bệnh nên sử dụng dài ngày những thuốc aspirin, thuốc chẹn bêta giao cảm, thuốc statin và một thuốc ức chế men chuyển