05-11-2016, 07:29 AM
Chứng bệnh động kinh với những tác động tinh thần vô cùng lớn tới bệnh nhân , hơn nữa nó còn vô cùng nguy hiểm bởi các tác động trên cơ thể người bệnh . Hiện tại, do sự tiến bộ của khoa học, chứng bệnh này đã được xem xét lại với ý kiến đúng đắn hơn và việc điều trị cũng đã tạo ra những bước tiến tích cực .
Nguyen nhan benh dong kinh
- Động kinh vô căn: Chiếm khoảng 75 phần trăm số bệnh nhân động kinh . Tuổi phát bệnh chủ yếu là 25 tuổi. Trong số đấy, 75 % có cơn lần đầu khi chưa đủ 18 tuổi. Bệnh nhân có thay đổi điện não, bệnh nhân có liệt Todd sau cơn, xuất hiện triệu chứng thần kinh kéo dài, hiện tượng động kinh, hoặc có tiền sử gia đình hay bị cơn tái phát .
- Chấn thương sọ não : thường xảy ra trong vòng một tháng đến một năm sau chấn thương sọ não . Đây là nguyên nhân dẫn đến động kinh thường gặp, đặc biệt khi xảy ra trong giai đoạn chu sinh, hoặc chấn thương dẫn tới lún sọ cũng như gây chảy máu dưới nhện, chảy máu não .
- Đột quỵ não: gần 5 - 15 phần trăm người bệnh đột quỵ xuất hiện những cơn co giật. Các dị thường mạch máu não chưa vỡ cũng có thể gây động kinh vì kích thích những đơn vị não xung quanh. Tương tự như co giật ở trong chấn thương, những cơn co giật trong tuần đầu tiên sau đột quỵ ko có ý nghĩa dự báo một chứng bệnh lý động kinh mãn tính về tương lai.
- Khối phát triển nội sọ: như : u não, áp xe não. 50 % những u não gây động kinh diện lâm sàng . Các u não có thể gây ra động kinh đó là u nguyên bào thần kinh đệm, u tế bào sao cùng u màng não . Bản chất động kinh gây ra bởi u não là động kinh cục bộ và thường xuất hiện muộn sau tuổi 40 . thường những u này khu trú trong bán cầu đại não.
- viêm đau màng não, đau viêm não: Động kinh ở đây đa số nằm ở trong bệnh cảnh lâm sàng của viêm đau màng não, đau viêm não. Là do vi khuẩn H. inf;uenza, virus Herpes simplex, lao, nấm, ký sinh trùng cysticercosis
Nhóm các chứng bệnh khác
Có thể nói đến ở đây là giảm đường huyết nhất là khi đường huyết còn mức 20 - 30 mg%; hạ natri huyết nếu nồng độ còn dưới 120mE/L hoặc là tại mức lớn hơn tuy vậy giảm xuống nhanh cũng có khả năng gây ra co giật ; bệnh thoái hoá gan - não, có thể gây ra những cơn cục bộ hoặc là toàn thể; bỏ thuốc, nhất là khi cai rượu, các thuốc an thần; hạ canxi huyết nếu trong khoảng 4,3 - 9,2 mg% có thể gây nên co giật; nhiều ure huyết cũng có thể gây co giật .
trong các sản phụ bị tăng huyết áp, proteine niệu phù hay xảy ra sản giật trong thời điểm chưa sinh ; máu não toàn bộ bởi ngừng tim; căn bệnh não tăng huyết áp cũng có thể gây ra cơn toàn thể co cứng, co giật hoặc là cơn cục bộ...
Xem thêm : bệnh động kinh tại đây
Nguyen nhan benh dong kinh
- Động kinh vô căn: Chiếm khoảng 75 phần trăm số bệnh nhân động kinh . Tuổi phát bệnh chủ yếu là 25 tuổi. Trong số đấy, 75 % có cơn lần đầu khi chưa đủ 18 tuổi. Bệnh nhân có thay đổi điện não, bệnh nhân có liệt Todd sau cơn, xuất hiện triệu chứng thần kinh kéo dài, hiện tượng động kinh, hoặc có tiền sử gia đình hay bị cơn tái phát .
- Chấn thương sọ não : thường xảy ra trong vòng một tháng đến một năm sau chấn thương sọ não . Đây là nguyên nhân dẫn đến động kinh thường gặp, đặc biệt khi xảy ra trong giai đoạn chu sinh, hoặc chấn thương dẫn tới lún sọ cũng như gây chảy máu dưới nhện, chảy máu não .
- Đột quỵ não: gần 5 - 15 phần trăm người bệnh đột quỵ xuất hiện những cơn co giật. Các dị thường mạch máu não chưa vỡ cũng có thể gây động kinh vì kích thích những đơn vị não xung quanh. Tương tự như co giật ở trong chấn thương, những cơn co giật trong tuần đầu tiên sau đột quỵ ko có ý nghĩa dự báo một chứng bệnh lý động kinh mãn tính về tương lai.
- Khối phát triển nội sọ: như : u não, áp xe não. 50 % những u não gây động kinh diện lâm sàng . Các u não có thể gây ra động kinh đó là u nguyên bào thần kinh đệm, u tế bào sao cùng u màng não . Bản chất động kinh gây ra bởi u não là động kinh cục bộ và thường xuất hiện muộn sau tuổi 40 . thường những u này khu trú trong bán cầu đại não.
- viêm đau màng não, đau viêm não: Động kinh ở đây đa số nằm ở trong bệnh cảnh lâm sàng của viêm đau màng não, đau viêm não. Là do vi khuẩn H. inf;uenza, virus Herpes simplex, lao, nấm, ký sinh trùng cysticercosis
Nhóm các chứng bệnh khác
Có thể nói đến ở đây là giảm đường huyết nhất là khi đường huyết còn mức 20 - 30 mg%; hạ natri huyết nếu nồng độ còn dưới 120mE/L hoặc là tại mức lớn hơn tuy vậy giảm xuống nhanh cũng có khả năng gây ra co giật ; bệnh thoái hoá gan - não, có thể gây ra những cơn cục bộ hoặc là toàn thể; bỏ thuốc, nhất là khi cai rượu, các thuốc an thần; hạ canxi huyết nếu trong khoảng 4,3 - 9,2 mg% có thể gây nên co giật; nhiều ure huyết cũng có thể gây co giật .
trong các sản phụ bị tăng huyết áp, proteine niệu phù hay xảy ra sản giật trong thời điểm chưa sinh ; máu não toàn bộ bởi ngừng tim; căn bệnh não tăng huyết áp cũng có thể gây ra cơn toàn thể co cứng, co giật hoặc là cơn cục bộ...
Xem thêm : bệnh động kinh tại đây