Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN - Phương pháp mới điều trị bệnh gút

Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN

Phiên bản đầy đủ: Phương pháp mới điều trị bệnh gút
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Xem phiên bản đầy đủ với định dạng thích hợp.
Gút là bệnh rối loạn chuyển hóa purin gây tăng acid uric. Bệnh nặng có thể phá hủy, biến dạng khớp, đồng thời làm suy giảm chức năng gan, suy thận, rối loạn mỡ máu, tiểu đường, tăng huyết áp...
Căn bệnh này lâu nay được mệnh danh là "bệnh người giàu". Chúng làm tăng acid uric mà sản phẩm cuối cùng là muối urat dạng hòa tan. Trong một số điều kiện, muối urat bị kết tủa thành vi tinh thể hình kim, gây tổn thương tại nhiều cơ quan như thận, tim, mạch máu, tổ chức dưới da… Còn nếu muối urat kết tủa tại khớp thì gây viêm khớp gút cấp, biểu hiện là sưng nóng, đỏ, đau dữ dội ở một khớp, thường gặp nhất là khớp ngón chân cái, cổ chân, đầu gối, cổ tay, khủy tay, ngón tay…

Tinh thể muối urat bám vào sụn khớp gối qua nội soi.
Ở những bệnh nhân bị gút nặng, u cục nổi lên gây phá hủy khớp, biến dạng khớp, làm suy giảm chức năng gan, suy thận, rối loạn mỡ máu, tiểu đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch vành...
Các phương pháp điều trị gút hiện nay vẫn tập trung chủ yếu vào chống viêm, giảm đau, tăng đào thải, giảm tổng hợp acid uric để hạn chế cơn gút cấp tái phát. Cách này đáp ứng tốt trên những bệnh nhân mới bị gút hoặc bệnh còn nhẹ, nhưng kém hiệu quả với những người bệnh nặng, có nhiều bệnh kèm theo. Chúng thậm chí hầu như không còn tác dụng trên những bệnh nhân đã bị biến chứng.
Là một trong những cơ sở y tế đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu và điều trị chuyên sâu bệnh gút, các giáo sư bác sĩ của Viện Gút nhận thấy 80 - 90% người tăng acid uric sau 10 đến 30 năm vẫn không chuyển thành bệnh gút. Tăng acid uric chỉ là một trong những điều kiện "cần" để urat kết tủa, mấu chốt thuộc về điều kiện "đủ" làm cho urat kết tủa mới gây bệnh gút.

Ông Võ Văn Ba trước và sau 7 tháng điều trị tại Viện Gút.Tuy đây vẫn còn là một bí ẩn, nhưng trong điều trị gút, không phải là không có lời giải cho vấn đề này. Nghiên cứu các bài thuốc thảo dược gia truyền của đồng bào một số dân tộc thiểu số ở miền núi, các bác sĩ Viện Gút phát hiện nhiều bài thuốc hiệu quả đối với các bệnh khớp, trong đó có bệnh mà người dân tộc gọi là "bệnh ăn thịt, uống rượu thì đau". Các bài thuốc này có nhiều vị thuốc chống viêm, giảm đau, thải độc, tăng cường chức năng gan, chức năng thận, lưu thông khí huyết…
Khắc phục những hạn chế trong điều trị gút, đơn vị này đã nghiên cứu, kế thừa và phát triển các bài thuốc trên ứng dụng trong điều trị bệnh gút và các bệnh lý kèm theo. Hơn 3 năm qua, hàng nghìn bệnh nhân gút đã được điều trị hiệu quả bằng phương pháp này. Đặc biệt, nhiều bệnh nhân gút bị biến chứng nặng đã có sự phục hồi toàn diện.
Ông Võ Văn Bé Ba, 55 tuổi ở Vĩnh Long là một trong hàng trăm bệnh nhân gút biến chứng đã được điều trị hiệu quả theo phương pháp trên. Ông bị gút hơn 10 năm, khi đến với Viện Gút, ông đã ở trong tình trạng chỉ còn da bọc xương, 2 đầu gối nổi đầy u cục, sưng to và bị co cứng lại.
Bệnh nhân đã phải năm một chỗ hơn một năm liên tục. Các chỉ số xét nghiệm sinh hóa như men gan, chức năng thận, mỡ máu đều tăng cao, huyết áp tăng. Sau 7 tháng điều trị tại đây, ông Ba đã có một sự phục hồi lớn, tăng được 10 kg, các cơn gút cấp lui dần, chức năng gan thận được phục hồi, các u cục nhỏ dần. Ngày 5/11, khi trở lại tái khám, ông Ba rất phấn khởi thông báo đã tập đi được hơn 70m và tin tưởng sẽ có ngày phục hồi hoàn toàn.
Bác sĩ Nguyễn Hồng Thu, Giám đốc phòng khám của Viện Gút cho biết, một trong những yêu cầu quan trọng nhất là bệnh nhân phải tuân thủ chỉ dẫn của bác sĩ về chế độ sinh hoạt, ăn uống, dùng thuốc, kiên trì, không nôn nóng trong điều trị. Những bệnh nhân nặng cùng đường như ông Ba thường tuân thủ tốt hơn so với những bệnh nhân còn nhẹ.
Viện Gút đã mở một phòng khám tại 98 Yên Thế, phường 2, quận Tân Bình, TP HCM để phục vụ cho bệnh nhân các tỉnh phía Nam; một phòng khám tại 125 Ông Ích Khiêm, quận Hải Châu Đà nẵng phục vụ cho bệnh nhân khu vực miền Trung và một phòng khám tại D22 phố Hồng Châu, Hải Dương phục vụ cho bệnh nhân các tỉnh phía Bắc.
Đơn vị này cũng thiết lập đường dây nóng qua số 0982180080/ 0862968626 và trả lời trực tuyến qua trang web: để tư vấn trực tiếp cho bệnh nhân.
Ngọc Bích
1. Bệnh von Willebrand là gì?

Bệnh von Willebrand là một rối loạn chảy máu. Người bị bệnh von Willebrand có vấn đề với một protein trong máu giúp kiểm soát chảy máu. Họ không có đủ protein này hoặc có nhưng không hoạt động bình thường làm cho máu đông chậm vì vậy chảy máu lâu cầm.

Bệnh von Willebrand có nhiều thể. Tất cả các thể này đều gây ra bởi protein yếu tố von Willebrand. Khi mạch máu bị tổn thương và bị chảy máu, yếu tố von Willebrand giúp một loại tế bào trong máu gọi là tiểu cầu kết dính với nhau và tạo thành cục máu đông để cầm chảy máu.
Bệnh von Willebrand là một rối loạn chảy máu hay gặp nhất ở người. Bệnh gặp ở cả nam và nữ. Bệnh von Willebrand thường nhẹ hơn các rối loạn chảy máu khác. Nhiều bệnh nhân von Willebrand không biết mình bị bệnh vì triệu chứng rất nhẹ. Đối với đa số bệnh nhân von Willebrand, bất thường chảy máu ít hoặc không ảnh hưởng đến cuộc sống trừ phi bệnh nhân bị chấn thương nặng hoặc cần phẫu thuật. Tuy nhiên, với tất cả các thể của bệnh von Willebrand thì bệnh nhân vẫn có những vấn đề liên quan đến chảy máu.
2. Người bị von Willebrand là do đâu ?
Bệnh von Willebrand thường do di truyền. Gen từ cả bố và mẹ truyền cho cả con trai và con gái. Đôi khi có trường hợp bị bệnh trong gia đình có người bị chảy máu. Tuy nhiên mức độ chảy máu của các thành viên trong gia đình rất khác nhau. Lại có trường hợp bị bệnh nhưng không phát hiện tiền sử chảy máu trong gia đình và bệnh von Willebrand xảy ra là do đột biến gen von Willebrand trước khi đứa trẻ được sinh ra.
3. Biểu hiện của bệnh von Willebrand như thế nào ?
  • Dễ bầm tím
  • Hay chảy máu mũi.
  • Chảy máu chân răng
  • Chảy máu kéo dài sau đứt tay
  • Kinh nguyệt kéo dài, số lượng nhiều
  • Xuất huyết tiêu hóa trên/ dưới
  • Chảy máu kéo dài sau phẫu thuật, nhổ răng, hoặc sau đẻ

Nhiều người bị von Willebrand có biểu hiện kín đáo hoặc không có biểu hiện. Bệnh nhân bị von Willebrand nặng hơn có thể có nhiều biểu hiện bất thường chảy máu hơn. Triệu chứng cũng có thể thay đổi theo thời gian trên cùng một bệnh nhân. Thỉnh thoảng bệnh von Willebrand chỉ được phát hiện khi có biểu hiện chảy máu nặng sau chấn thương hoặc sau phẫu thuật, nhổ răng.
Phụ nữ thường có biểu hiện bệnh von Willebrand nặng hơn nam giới. Phụ nữ bị von Willebrand thường chảy máu nhiều hơn và lâu hơn trong kì kinh nguyệt. Một số phụ nữ bị von Willebrand thường đau bụng kinh và có kinh nguyệt không đều.
Nhóm máu có vai trò trong bệnh lý von Willebrand . Người có nhóm máu O thường có nồng độ yếu tố von Willebrand thấp hơn người có nhóm máu A, B hoặc AB. Điều này có nghĩa là người bệnh von Willebrand nhóm máu O có vấn đề chảy máu nhiều hơn.
Bệnh von Willebrand không dễ chẩn đoán. Ai có nghi ngờ bị bệnh von Willebrand nên đến khám bác sĩ huyết học chuyên điều trị bệnh lí chảy máu. Các xét nghiệm sẽ được chỉ định ở trung tâm điều trị bệnh lí chảy máu. Do yếu tố von Willebrand có nhiều chức năng nên cần làm nhiều xét nghiệm để chẩn đoán bệnh von Willebrand.
Các xét nghiệm để chẩn đoán von Willebrand tương đối khó. Bệnh von Willebrand không thể được chẩn đoán bằng các xét nghiệm máu thường qui. Các xét nghiệm bao gồm định lượng nồng độ và hoạt tính yếu tố von Willebrand , các protein đông máu khác, yếu tố VIII. Xét nghiệm thường được làm vài lần vì nồng độ yếu tố VIII và von Willebrand của người có thể thay đổi tại các thời điểm khác nhau.
4. Các thể von Willebrand khác nhau
Có 3 thể von Willebrand chính. Với mỗi thể von Willebrand, bệnh có thể nhẹ, trung bình hoặc nặng. Triệu chứng chảy máu rất thay đổi với mỗi thể phụ thuộc vào hoạt tính yếu tố von Willebrand. Điều quan trọng cần biết là mỗi thể von Willebrand lại cần điều trị theo cách khác nhau.
Thể 1 von Willebrand: Là thể hay gặp nhất. Người bệnh thể 1 von Willebrand có nồng độ yếu tố von Willebrand thấp hơn bình thường, triệu chứng thường rất nhẹ. Tuy nhiên một số người thể 1 von Willebrand có biểu hiện chảy máu nặng hơn.
Thể 2 von Willebrand: Bao gồm các tổn thương cấu trúc yếu tố von Willebrand . Protein yếu tố von Willebrand không làm việc được bình thường bởi vì hoạt tính của yếu tố von Willebrand thấp hơn bình thường. Có một số nhóm von Willebrand thể 2 triệu chứng thường trung bình
Thể 3 von Willebrand: Thường có biểu hiện nặng nhất. Bệnh nhân thể 3 von Willebrand có rất ít hoặc không có yếu tố von Willebrand . Bệnh nhân thể 3 von Willebrand có thể chảy máu cơ khớp, đôi khi không liên quan đến chấn thương.

5. Bệnh von Willebrand được điều trị như thế nào?
Bệnh von Willebrand có thể được điều trị với thuốc tổng hợp như desmopressin hoặc với chế phẩm yếu tố cô đặc có chứa yếu tố von Willebrand hoặc những thuốc khác giúp kiểm soát chảy máu. Cách thức điều trị phụ thuộc một phần vào thể bệnh của bệnh nhân. Bệnh nhân thể nhẹ thường không cần điều trị ngoại trừ trường hợp nhổ răng hoặc phẫu thuật.
Desmopressin thường có hiệu quả khi điều trị cho bệnh von Willebrand thể 1 và giúp dự phòng và điều trị chảy máu cho một số dạng của thể 2. Desmopressin có thể kiểm soát chảy máu trong trường hợp cấp cứu hoặc trong phẫu thuật. Thuốc có thể được dùng đường tiêm hoặc xịt mũi, và nâng nồng độ yếu tố von Willebrand và yếu tố VIII giúp cầm chảy máu. Desmopressin không có tác dụng trên một số người bệnh. Vì vậy bác sĩ sẽ làm thử nghiệm để thăm dò đáp ứng của từng người bệnh với thuốc. Lý tưởng nhất là thử nghiệm nên được làm trước khi cần điều trị.
Yếu tố cô đặc: Được sử dụng khi desmopressin không có biệu quả hoặc khi có nguy cơ cao chảy máu lớn. Yếu tố cô đặc chứa yếu tố von Willebrand và yếu tố VIII. Yếu tố cô đặc thường được sử dụng cho bệnh von Willebrand thể 3, đa số thể 2 von Willebrand và cho chảy máu nặng hoặc phẫu thuật lớn trong tất cả các thể của von Willebrand.

Chảy máu niêm mạc (trong mũi, mồm, ruột hoặc dạ con) có thể được kiểm soát bằng thuốc như Tranexamic acid (Transamin), Arninocaproid acid hoặc keo fibrin. Tuy nhiên các sản phẩm này được sử dụng để duy trì cục máu và thường không giúp tạo cục máu.
Liệu pháp hormon, như thuốc tránh thai đường uống, giúp tăng nồng độ yếu tố von Willebrand và yếu tố VIII và kiểm soát chảy máu kinh nguyệt. Nếu không chỉ định hormon, tác nhân chống tiêu fibrin có thể có hiệu quả trong điều trị cường kinh.
Các phương pháp điều trị có thể có tác dụng phụ, vì vậy bệnh nhân von Willebrand nên trao đổi với bác sĩ về những tác dụng phụ có thể.

6. Lối ra cho các phụ nữ bị von Willebrand
Phụ nữ bị von Willebrand thường có biểu hiện nhiều hơn nam giới vì họ có kinh nguyệt hàng tháng và có thời gian chửa đẻ. Các cô gái mới lớn có thể có chảy máu nặng khi mới có kinh nguyệt. Phụ nữ bị von Willebrand thường có chu kì kinh nguyệt kéo dài hơn, hoặc số lượng nhiều hơn. Những chu kì kinh nguyệt này có thể gây ra thiếu máu (thiếu máu do thiếu sắt, kết quả là mệt mỏi, ốm yếu). Phụ nữ bị von Willebrand nên được kiểm tra thiếu máu định kì.

Phụ nữ bị von Willebrand cần khám bác sĩ chuyên khoa sản càng sớm càng tốt khi họ có thai. Bác sĩ chuyên khoa sản cần làm việc với trung tâm điều trị bệnh lí chảy máu để chăm sóc tốt nhất cho bệnh nhân trong thời gian có thai và sinh con. Trong thời gian có thai, người phụ nữ thường có tăng nồng độ yếu tố von Willebrand và yếu tố VIII. Điều này giúp quá trình sinh nở được bảo vệ tốt hơn khỏi chảy máu. Tuy nhiên sau khi đẻ, yếu tố đông máu bị giảm xuống và bệnh nhân bị von Willebrand có thể bị chảy máu sau đó.
Phụ nữ bị von Willebrand trong giai đoạn tiền mãn kinh (cuối của giai đoạn kinh nguyệt – thường từ 45 đến 50 tuổi) thường tăng nguy cơ chảy máu và u. Do đó những người này cần được khám bác sĩ sản khoa định kì.
7. Những điểm cần chú ý đối với người bị bệnh von Willebrand
  • Luôn mang bên mình các thông tin về chẩn đoán, cách thức điều trị, tên và số điện thoại của bác sĩ hoặc trung tâm điều trị (Thẻ bệnh nhân). Trogn trường hợp cấp cứu, tấm thẻ này sẽ nhắc nhở cán bộ y tế lưu ý đến tình trạng chảy máu của bạn.
  • Thông báo với nhà trường về căn bệnh mà bạn mắc và các biện pháp sơ cứu. Đa số các trường hợp có vấn đề ở trường là việc chảy máu mũi.
  • Đăng kí với trung tâm về đặc điểm bệnh tất, chẩn đoán và điều trị của bạn
  • Thận trọng khi dùng thuốc. Thông báo với bác sĩ về tình trạng chảy máu của bạn trước khi dùng bất cứ loại thuốc gì.
  • Tập thể dục thường xuyên để giữ cơ và khớp khoẻ.
  • Khi đi du lịch, nên tìm hiểu địa chỉ và số điện thoại của trung tâm điều trị chảy máu tại nơi bạn đến và nhớ mang theo thẻ bệnh nhân.
Biên dịch: Nguyễn Thị Mai
Theo: Hội rối loạn đông máu di truyền Việt Nam
Chắc hẳn chúng ta đều biết bia rượu là tác nhân gây nên nhiều căn bệnh nguy hiểm, đe dọa tính mạng của người sử dụng một cách không điều độ, nó tác động mạnh đến các bộ phận của cơ thể, nhất là gan. Khi người uống rượu bia mang mầm bệnh viêm gan siêu vi B nữa thì nguy cơ bị ung thư gan là rất cao.

Cái nhìn tổng quan:
Theo vị trí địa lý, nước ta nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm, thể loại thời tiết mang tới rất nhiều bệnh tật. Nước ta cũng là một trong những đất nước có mật độ lưu hành virus cao, do vậy những đối tượng như: bệnh nhân phải thường xuyên truyền máu, người nghiện ma tuý và những người hành nghề mại dâm là những đối tượng dễ bị lây nhiễm và là nguồn lây nhiễm nguy hiểm nhất.
Với một căn bệnh như bệnh Viêm gan virus B là một bệnh truyền nhiễm ở người do vius viêm gan B (HBV) gây nên, một bệnh để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng là viêm gan virus B mạn tính, xơ gan, có thể dẫn tới ung thư gan. Khoảng 30% bệnh nhân viêm gan B không hề có bất cứ một dấu hiệu hoặc triệu chứng nào đáng kể.

Biểu hiện của bệnh:
Các biểu hiện và triệu chứng thường gặp nhất: theo mức độ đáp ứng của từng cơ thể mà biểu hiện lâm sàng khác nhau, từ nhẹ vừa đến nặng, một số dấu hiệu thường gặp đó là vàng da, vàng mắt, đau tức nặng hạ sườn phải, rối loạn tiêu hoá, buồn nôn, nôn, nước tiểu vàng, mệt mỏi, đau mỏi cơ khớp…
Uống bia rượu nhiều dễ chuyển viêm gan siêu vi B thành ung thư gan
Nguy cơ gây ung thư tăng lên khi bệnh nhân viêm gan siêu vi B sử dụng nhiều bia, rượu. Do chúng có thể tương tác với virus viêm gan B, C để tăng nguy cơ bị ung thư gan lên gấp nhiều lần.
Bên cạnh đó, bạn có thể được chữa trị bằng nhiều loại thuốc khác nhau như Lamivudin, Adeforvir, Entecavir, Interferon, peg – Interferon.. tuy nhiên khi dùng các thuốc này phải có chỉ định của bác sỹ và phải được theo dõi chặt chẽ, tuyệt đối không được dừng thuốc đột ngột nếu không có ý kiến của bác sỹ, vì nếu dừng các thuốc diệt virus đột ngột sẽ làm cho tình trạng bệnh càng nặng nề hơn
Lời khuyên của các bác sĩ
Cần phải có một chế độ sinh hoạt ăn uống và làm việc hợp lý, tránh làm việc căng thẳng, nặng nhọc quá sức; ăn tăng đạm, tăng chất xơ và hoa quả, hạn chế chất béo; nên ăn thức ăn tươi, tránh các thức ăn đóng hộp, các thực phẩm lưu cữu; đặc biệt bạn phải tránh các đồ uống có cồn như rượu, bia..các thuốc gây độc cho gan như nhóm thuốc giảm đau hạ sốt, nhóm thuốc có codein.