01-13-2013, 01:44 PM
Chiều tối
暮
Mộ
Chiều tối
倦鳥歸林尋宿樹
孤雲慢慢度天空
山村少女磨包粟
包粟磨完炉已烘
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Bản dịch của Nam Trân:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Đêm ngủ ở Long Tuyền
夜宿龍泉
Dạ túc Long Tuyền
Đêm ngủ ở Long Tuyền
白天雙馬不停蹄
夜晚嘗嘗五味雞
虱冷乘機來夾擊
隔鄰欣聽曉鶯啼
Bạch thiên “song mã” bất đình đề
Dạ vãn thường thường “ngũ vị kê”
Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích
Cách lân hân thính hiểu oanh đề.
Bản dịch của Nam Trân - Huệ Chi:
“Đôi ngựa” ngày đi chẳng nghỉ chân,
Món “gà năm vị”, tối thường ăn;
Thừa cơ rét, rệp xông vào đánh,
Mừng sớm nghe oanh hót xóm gần.
Long Tuyền là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, nằm giữa Thiên Bảo và Điền Đông. Tác giả chơi chữ: “song mã” là cỗ xe ngựa cho người quyền quý thời xưa, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả; “ngũ vị kê” là một món ăn ngon nổi tiếng của Trung Quốc, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả bị xiềng tréo giống như chân gà.
Điền Đông
田東
Điền Đông
每餐一碗公家粥
肚子時時在嘆吁
白飯三元不鉤飽
薪如桂也米如珠
Mỗi xan nhất uyển công gia chúc
Đỗ tử thì thì tại thán nu
Bạch phạn tam nguyên bất câu bão
Tân như quế dã mễ như châu.
Bản dịch của Nam Trân – Hoàng Trung Thông:
Cháo tù mỗi bữa chia lưng bát,
Cái bụng luôn luôn rên rỉ sầu;
Cơm nhạt ba đồng ăn chẳng đủ,
Củi thì như quế, gạo như châu.
Điền Đông là một điểm dừng chân khi tác giả bị giải từ Tĩnh Tây đi Nam Ninh.
Mới đến nhà lao Thiên Bảo
初到天保獄
Sơ đáo Thiên Bảo ngục
Mới đến nhà lao Thiên Bảo
日行五十三公里
濕盡衣冠破盡鞋
徹夜又無安睡處
廁坑上坐待朝來
Nhật hành ngũ thập tam công lý
Thấp tận y quan phá tận hài
Triệt dạ hựu vô an thụy xứ
Xí khanh thượng tọa đại triêu lai.
Bản dịch của Huệ Chi:
Năm mươi ba dặm, một ngày trời,
Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi;
Lại khổ thâu đêm không chốn ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ban mai.
Bản dịch của Khương Hữu Dụng - Nguyễn Sĩ Lâm:
Ngày cuốc năm mươi ba cột số,
Ướt đầm mũ áo, rách bươm giày;
Thâu đêm lại chẳng nơi yên giấc,
Ngồi trấn cầu tiêu, đợi sáng ngày.
Dị bản:
Năm mươi ba cây số một ngày,
Áo mũ dầm mưa, rách hết giày;
Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ban mai.
Dị bản:
Năm mươi ba dặm một ngày,
Áo khăn ướt sũng, đôi giày xách xơ;
Thâu đêm thôi cứ thức trơ,
Ngồi trên hố xí đợi chờ sáng ra.
Không hiểu tại sao bài này lại nằm sau bài Điền Đông?! Có lẽ là hồi ức của tác giả về quãng đường đi từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo chăng?
Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng
難友之妻探監
Nạn hữu chi thê thám giam
Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng
君在铁窗裡
妾在铁窗前
相近在咫尺
相隔似天渊
口不能說的
只賴眼傳言
未言淚已滿
情景真可憐
Quân tại thiết song lý
Thiếp tại thiết song tiền
Tương cận tại chỉ xích
Tương cách tự thiên uyên
Khẩu bất năng thuyết đích
Chỉ lại nhãn truyền nghiên
Vị ngôn lệ dĩ mãn
Tình cảnh chân khả liên!
Bản dịch của Nam Trân – Hoàng Trung Thông:
Anh ở trong song sắt,
Em ở ngoài song sắt;
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà cách nhau trời vực;
Miệng nói chẳng nên lời,
Chỉ còn nhờ khóe mắt;
Chưa nói, lệ tuôn tràn,
Cảnh tình đáng thương thật!
Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie
各報:歡迎威基大會
Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội
Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie
同是中國友
同是要赴渝
君為坐上客
我為階下囚
同是代表也
待遇胡懸殊
人情分冷熱
自古水東流
Đồng thị Trung Quốc hữu
Đồng thị yếu phó Du
Quân vi tọa thượng khách
Ngã vi giai hạ tù
Đồng thị đại biểu dã
Đãi ngộ hồ huyền thù?
Nhân tình phân lãnh nhiệt
Tự cổ thủy đông lưu.
Bản dịch của Nam Trân:
Cũng là đi Trùng Khánh,
Cũng là bạn Trung Hoa;
Anh, làm khách trên sảnh,
Tôi, thân tù dưới nhà;
Cùng là đại biểu cả,
Khinh trọng sao khác xa?
Thói thường chia ấm lạnh,
Về đông nước chảy mà!
Uy-ki tức Wendell Willkie, đại biểu Mỹ trong phe Đồng minh chống phát-xít, trên đường đến Trùng Khánh, đi qua Đệ tứ chiến khu Quảng Tây được nhà đương cục tổ chức họi họp tiếp đãi. Bấy giờ, tác giả là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội, cũng là đồng minh của Trung Quốc chống Nhật nhưng lại bị chính quyền Tưởng bắt giam.
Tự khuyên mình
自勉
Tự miễn
Tự khuyên mình
没有冬寒憔悴景
將無春暖的輝煌
災殃把我來鍛鍊
使我精神更健強
Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện
Sử ngã tinh thần cách kiện cường.
Bản dịch của Nam Trân:
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
暮
Mộ
Chiều tối
倦鳥歸林尋宿樹
孤雲慢慢度天空
山村少女磨包粟
包粟磨完炉已烘
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Bản dịch của Nam Trân:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Đêm ngủ ở Long Tuyền
夜宿龍泉
Dạ túc Long Tuyền
Đêm ngủ ở Long Tuyền
白天雙馬不停蹄
夜晚嘗嘗五味雞
虱冷乘機來夾擊
隔鄰欣聽曉鶯啼
Bạch thiên “song mã” bất đình đề
Dạ vãn thường thường “ngũ vị kê”
Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích
Cách lân hân thính hiểu oanh đề.
Bản dịch của Nam Trân - Huệ Chi:
“Đôi ngựa” ngày đi chẳng nghỉ chân,
Món “gà năm vị”, tối thường ăn;
Thừa cơ rét, rệp xông vào đánh,
Mừng sớm nghe oanh hót xóm gần.
Long Tuyền là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, nằm giữa Thiên Bảo và Điền Đông. Tác giả chơi chữ: “song mã” là cỗ xe ngựa cho người quyền quý thời xưa, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả; “ngũ vị kê” là một món ăn ngon nổi tiếng của Trung Quốc, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả bị xiềng tréo giống như chân gà.
Điền Đông
田東
Điền Đông
每餐一碗公家粥
肚子時時在嘆吁
白飯三元不鉤飽
薪如桂也米如珠
Mỗi xan nhất uyển công gia chúc
Đỗ tử thì thì tại thán nu
Bạch phạn tam nguyên bất câu bão
Tân như quế dã mễ như châu.
Bản dịch của Nam Trân – Hoàng Trung Thông:
Cháo tù mỗi bữa chia lưng bát,
Cái bụng luôn luôn rên rỉ sầu;
Cơm nhạt ba đồng ăn chẳng đủ,
Củi thì như quế, gạo như châu.
Điền Đông là một điểm dừng chân khi tác giả bị giải từ Tĩnh Tây đi Nam Ninh.
Mới đến nhà lao Thiên Bảo
初到天保獄
Sơ đáo Thiên Bảo ngục
Mới đến nhà lao Thiên Bảo
日行五十三公里
濕盡衣冠破盡鞋
徹夜又無安睡處
廁坑上坐待朝來
Nhật hành ngũ thập tam công lý
Thấp tận y quan phá tận hài
Triệt dạ hựu vô an thụy xứ
Xí khanh thượng tọa đại triêu lai.
Bản dịch của Huệ Chi:
Năm mươi ba dặm, một ngày trời,
Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi;
Lại khổ thâu đêm không chốn ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ban mai.
Bản dịch của Khương Hữu Dụng - Nguyễn Sĩ Lâm:
Ngày cuốc năm mươi ba cột số,
Ướt đầm mũ áo, rách bươm giày;
Thâu đêm lại chẳng nơi yên giấc,
Ngồi trấn cầu tiêu, đợi sáng ngày.
Dị bản:
Năm mươi ba cây số một ngày,
Áo mũ dầm mưa, rách hết giày;
Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ban mai.
Dị bản:
Năm mươi ba dặm một ngày,
Áo khăn ướt sũng, đôi giày xách xơ;
Thâu đêm thôi cứ thức trơ,
Ngồi trên hố xí đợi chờ sáng ra.
Không hiểu tại sao bài này lại nằm sau bài Điền Đông?! Có lẽ là hồi ức của tác giả về quãng đường đi từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo chăng?
Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng
難友之妻探監
Nạn hữu chi thê thám giam
Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng
君在铁窗裡
妾在铁窗前
相近在咫尺
相隔似天渊
口不能說的
只賴眼傳言
未言淚已滿
情景真可憐
Quân tại thiết song lý
Thiếp tại thiết song tiền
Tương cận tại chỉ xích
Tương cách tự thiên uyên
Khẩu bất năng thuyết đích
Chỉ lại nhãn truyền nghiên
Vị ngôn lệ dĩ mãn
Tình cảnh chân khả liên!
Bản dịch của Nam Trân – Hoàng Trung Thông:
Anh ở trong song sắt,
Em ở ngoài song sắt;
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà cách nhau trời vực;
Miệng nói chẳng nên lời,
Chỉ còn nhờ khóe mắt;
Chưa nói, lệ tuôn tràn,
Cảnh tình đáng thương thật!
Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie
各報:歡迎威基大會
Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội
Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie
同是中國友
同是要赴渝
君為坐上客
我為階下囚
同是代表也
待遇胡懸殊
人情分冷熱
自古水東流
Đồng thị Trung Quốc hữu
Đồng thị yếu phó Du
Quân vi tọa thượng khách
Ngã vi giai hạ tù
Đồng thị đại biểu dã
Đãi ngộ hồ huyền thù?
Nhân tình phân lãnh nhiệt
Tự cổ thủy đông lưu.
Bản dịch của Nam Trân:
Cũng là đi Trùng Khánh,
Cũng là bạn Trung Hoa;
Anh, làm khách trên sảnh,
Tôi, thân tù dưới nhà;
Cùng là đại biểu cả,
Khinh trọng sao khác xa?
Thói thường chia ấm lạnh,
Về đông nước chảy mà!
Uy-ki tức Wendell Willkie, đại biểu Mỹ trong phe Đồng minh chống phát-xít, trên đường đến Trùng Khánh, đi qua Đệ tứ chiến khu Quảng Tây được nhà đương cục tổ chức họi họp tiếp đãi. Bấy giờ, tác giả là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội, cũng là đồng minh của Trung Quốc chống Nhật nhưng lại bị chính quyền Tưởng bắt giam.
Tự khuyên mình
自勉
Tự miễn
Tự khuyên mình
没有冬寒憔悴景
將無春暖的輝煌
災殃把我來鍛鍊
使我精神更健強
Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện
Sử ngã tinh thần cách kiện cường.
Bản dịch của Nam Trân:
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.