Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN - Nguyễn Trãi (1380 - 1442)

Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN

Phiên bản đầy đủ: Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Xem phiên bản đầy đủ với định dạng thích hợp.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần.

Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 - 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442.

Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan.

Nhìn chung, ở cuộc đời Nguyễn Trãi nổi lên hai điểm cơ bản sau:

Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Ở Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất.

Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chiụ những oan khiên thảm khốc, do xã hội cũ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch sử.

SỰ NGHIỆP THƠ VĂN:
- Nhà văn, nhà thơ lớn: là anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị. "Quân trung từ mệnh tập" là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh, nhằm thực hiện kế "đánh vào lòng", ngày nay gọi là địch vận. "Bình Ngô đại cáo" lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về qúa trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước. "Lam Sơn thực lục" là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. "Dư địa chí" viết về địa lý lịch sử nước ta. "Chí Linh sơn phú" nói về cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn bằng chữ Hán.

Về thơ, có hai tập: "Ức trai thi tập" bằng chữ Hán, "Quốc âm thi tập" bằng chữ Nôm, tức chữ Việt, đó là thơ cả một đời, từ lúc trẻ đến tuổi già, nhiều nhất là khoảng 10 năm tìm đường và thời gian về nghỉ ở Côn Sơn. Nội dung thấy rõ trong đó là tâm tình đối với quê hương, gia đình, với nước, với dân, với bao éo le trong cuộc đời...

- Tình yêu quê hương gia đình: Nội dung thơ văn ông rất phong phú. Đây chỉ nói vắn tắt một vài khía cạnh. Nét đầu tiên là niềm tha thiết với thiên nhiên ở quê hương. Bắt đầu là những cái nhỏ nhặt, tưởng như không đâu, nhưng chan chứa thân thương. Rau muống, mồng tơi, râm bụt, cây chuối, cây đa, cây mía... đều thành vần điệu. Đào, liễu, tùng, trúc cao sang đứng liền bên cạnh rau muống, mồng tơi quê mùa một cách tự nhiên. Không chút gì phân biệt sang hèn. Tất cả đều được lòng ông trìu mến. Ông nói một cách trang trọng: "Hái cúc, ương lan, hương bén áo, Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn", mà cũng vừa vui tươi chân chất: "Ao cạn, vớt bèo cấy muống, Trì thanh, phát cỏ ương sen". Ông phát hiện ra cái đẹp bình dị rất bất ngờ: Đêm trăng gánh nước thì gánh luôn trăng đem về ("Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về"). Bầu trời không mây, trong suốt một màu xanh, ông thấy đó là một bầu ngọc đông lại ("Thế giới đông nên ngọc một bầu"). Thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi, ông nhìn thành một đám tằm lúc nhúc ("Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi"). Con rùa, con hạc, núi, chim, mây, trăng, ông coi là con cái, là láng giềng, là anh em: "Rùa nằm, hạc lẩn nên bầy bạn, U ấp cùng ta làm cái con...", "Núi láng giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam". Có lúc, ông như hòa tan mình vào thiên nhiên đến mức dòng suối, tảng đá phủ rêu, vòm thông tán trúc như hòa nhập với ông làm một: "Côn Sơn có suối rì rầm. Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai, Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm, Trong lèn thông mọc như nêm, Tha hồ muôn lọng ta xem chốn nằm, Trong rừng có bóng trúc râm, Giữa màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn"... (Côn Sơn ca - dịch).

Tiếp theo là niềm tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà. Thời còn giặc Minh, nhiều năm ông phải lẫn tránh khắp nơi, xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầụ Đêm thu, xa nhà, bên ngọn đèn khuya, ông day dứt: :Gió thu đến, lá rụng rồi. mình vẫn lận đận quê người, Đêm mưa, bên ngọn đèn leo lét, hồn mộng cứ vẫn vơ mãi nơi đất khách" (Đêm thu đất khách - dịch). Tiết Thanh minh đến, theo tục, con cháu phải về thăm mồ mã ông bà, sửa sang, bồi đắp, thắp nén hương tưởng nhớ, cho đúng đạo làm con cháu, thế mà đã bao năm ông không về được. Ông chỉ não lòng: "Thân mình xa ngàn dặm, mồ mã ông bà ở quê không sao giẫy cỏ thắp hương, Mười năm đã qua, những nguời ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai, Đành mượn chén rượu ép mình uống, không cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê" (Thanh minh - dịch).

Ông mất mẹ lúc mới lên sáu. Lòng con thương mẹ càng nồng. Ông bà ngoại, cậu, dì đều ở Côn Sơn. Quê nội nhiều đời cũng ở đó. Một lần đi thuyền về thăm, ông ôn lại bao nỗi đắng cay trong những ngày lưu lạc. Nghe sao mà tha thiết: "Mười năm rồi mình trôi dạc như cánh bèo, Đêm ngày nổi nhớ quê cứ như giày vò trong lòng, Bao lần đã gửi hồn tìm về quê cũ, Nhưng rồi đành nhỏ nước mắt thấm máu mà gội rửa trong tưởng tượng nấm mồ mẹ, mồ mã ông bà, còn xóm làng, bà con, trong lúc giặc giày xéo thì tránh sao được những hành vi bạo tàn của chúng! mà mình thì cứ đang phải thương xót suông, Trời: biết làm sao đây! Một đêm trôi qua bên gối, không cách nào nhắm mắt được" (viết trên thuyền về Côn Sơn - dịch).

- Đời sống trong sạch, suốt đời một lòng vì nước vì dân: Trở về với nông thôn, ông yên lòng và tự hào: "Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao". Cấy cày là niềm vui: "Một cày một cuốc thú nhà quề, Áng chúc lan chen vãi đậu kê". Người dân bùn lấm đáng được biết ơn: "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày". Cuộc sống giản dị, nghèo mà thanh: "Bữa ăn dầu có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là", "Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bô quen cật vận xềnh xoàng", xa lánh chốn lợi danh nham hiểm: "Co qoe thay bấy ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi trái hòe". Ông ca ngợi chi tiết của tùng, trúc, mai, ba cây không chịu khuất phục trước giá lạnh mùa đông và ông luôn giữ một tấm lòng trong sạch, một tấm "lòng thơm".

Lòng thơm ấy là lòng yêu nước thương dân. Có khi ông gọi đó là "lòng trung hiếu", "lòng ưu ái". Nó suốt đời sôi nổi: "Bui có một lòng trung liễn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen", "Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông". Nó dựa trên lý tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là một tư tưởng cao qúy xuyên thấm cuộc đời và thơ văn ông. Đối với ông, nhân nghĩa là "yên dân", "trừ bạo" hay "Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược". Được như vậy mới thực sự "Có nhân, có trí, có anh hùng". Nhân trí, anh hùng ấy thuộc lòng yêu nước cao cả của ông, yêu nước bằng tư tưởng, tình cảm, bằng hành động cứu nước lo dân tuyệt vời. Nói cụ thể như : "cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân". Đất nước bị ngoại xâm, nó hiện thành lòng lòng căm thù giặc cao độ và ý chí kiên trì, gang thép tiêu diệt quân thù: "Căm giặc nước thề không cùng sống", "Nếm mật nằm gai, há phải một sớm hai tối, Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh". Quân giặc quét sạch rồi, nó là khát khao xây dựng một đất nước hưng thịnh, nhân dân đời đời ấm no hạnh phúc: "Xã tắc từ đây bền vững, Giang sơn từ đây đổi mới...., Muôn thởu nền thái bình vững chắc".
Một tiểu sử rất chi tiết về Nguyễn Trãi, cảm ơn bạn đã chia sẻ.
1 đời vì dân vì nước và thơ văn, cuối cùng lại chết 1 cách oan khuất
cám ơn bạn vì bài viết bổ ích này:-bd
Người Việt toàn biết đến những câu chuyện của lịch sử Trung Quốc hoặc nước ngoài trong khi ở VN nhiều tướng tài như vậy mà lại không biết thì thật đáng tiếc
‘Tự hào Việt Nam’, sân chơi lịch sử siêu hấp dẫn
Sau 4 tuần tổ chức, cuộc thi “Tự hào Việt Nam” đã thu hút gần 400.000 thí sinh từ 2.621 trường THPT, TTGDTX thuộc 63/63 tỉnh, thành phố tham gia dự thi vòng loại cá nhân trực tuyến.

Cuộc thi “Tự hào Việt Nam” do T.W Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Bộ GD&ĐT, Công ty CP Trò chơi Giáo dục Trực tuyến Egame phối hợp tổ chức đã trở thành “cú hích” truyền cảm hứng và tạo động lực cho thế hệ trẻ yêu môn lịch sử.
[Image: 20160115084608-e1.jpg]

Đ/c Nguyễn Văn Hùng - Phó Trưởng Ban Dân vận TW Đảng, đ/c Lâm Phương Thanh - Phó Trưởng Ban Tuyên Giáo TW Đảng và đ/c Nguyễn Thị Nghĩa - Thứ trưởng Bộ GD&ĐT trao giải Nhất cho em Huỳnh Thanh Thân, trường THPT Trần Bình Trọng, Khánh Hòa
Theo từng tuần thi, sự bám đuổi, hoán đổi vị trí của các đơn vị trường, tỉnh, thành trên bảng xếp hạng đã tạo một sân chơi thú vị, hấp dẫn, thu hút đông đảo các bạn học sinh tham gia. Vòng chung kết toàn quốc là màn tranh tài gay cấn và kịch tính của 82 bạn thí sinh xuất sắc nhất từ 62 tỉnh, thành Đoàn trên cả nước.

Theo đánh giá của đa số thí sinh, “Tự hào Việt Nam” đã mở ra một sân chơi lịch sử đầy màu sắc mới mẻ dựa trên nền công nghệ hiện đại. Đây là bước đột phá về công nghệ, là sự kết hợp hoàn hảo giữa tri thức lịch sử trên nền tảng ứng dụng CNTT ,biến các nội dung lịch sự khô khan thành các nội dung thi hấp dẫn, cuốn hút. Có được thành công trên là nhờ đội ngũ các kỹ sư trẻ của công ty Egame, đã dành trọn tâm huyết để thiết kế hệ thống và vận hành cuộc thi.

Theo góc nhìn của 1 số chuyên gia giáo dục và thầy cô giáo, nếu khai thác tốt, hệ thống trên sẽ rất thích hợp và ứng dụng hiệu quả vào việc thi trắc nghiệm, kiểm tra học kỳ, giúp các em học sinh hào hứng và có kết quả tốt hơn.

Đặc biệt, “Tự hào Việt Nam” nổi bật ở nội dung thi video clip khi các thí sinh, nhóm thí sinh đã lên ý tưởng và tổ chức thực hiện. Nhiều clip được sự hỗ trợ về kỹ thuật, tư vấn chuyên môn của các thầy cô giáo có hiệu ứng hiệu quả, thông tin lịch sử, văn hoá chính xác.

Ban Tổ chức cuộc thi cho biết đã nhận được 477 video clip giới thiệu các địa danh, di tích, danh nhân, loại hình văn hóa, nghệ thuật, các phong tục của địa phương, các bài học lịch sử về quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam, các sự kiện, thời kỳ lịch sử của dân tộc của các em học sinh đến từ 255 trường THPT, TTGDTX thuộc 53/63 tỉnh, thành phố.

[Image: 20160115100351-gd.jpg]
Màn tranh tài gay cấn của 82 "nhà sử học trẻ"​

Trước vòng Chung kết toàn quốc "Tự hào Việt Nam" là một chuỗi hoạt động ý nghĩa như: Tọa đàm “Làm thế nào để học tốt và yêu thích môn lịch sử”; thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long; thăm trụ sở Quốc hội và gặp mặt lãnh đạo Quốc hội Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

[Image: 20160115084608-e3.jpg]
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu tặng quà lưu niệm cho các bạn thí sinh
[Image: 20160115084608-e4.jpg]
82 bạn thí sinh chụp ảnh lưu niệm cùng Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu tại trụ sở Quốc hội​
Theo Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo ưu tú Vũ Minh Giang “Lịch sử phải làm nhiệm vụ là cánh cửa trao lại những bài học kinh nghiệm ấy cho các thế hệ về sau, không chỉ là lịch sử trong nước mà cả lịch sử thế giới. Thứ ba là học lịch sử để nắm bắt được quy luật vận động của xã hội. Thứ tư, lịch sử giúp cho con người trở nên giàu có về tri thức, uyên bác. Thứ năm, lịch sử dạy tư duy hệ thống, chúng ta có thể đem câu chuyện cách đây hàng trăm năm áp dụng vào hôm nay...".

Hãy tiếp tục yêu lịch sử nước nhà, hãy tự hào Việt Nam ngay từ hôm nay và mai sau!
Thật tiếc cho cuộc đời 1 danh nhân.