Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN - Dinh dưỡng cần thiết cho trẻ dưới 1 tuổi

Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN

Phiên bản đầy đủ: Dinh dưỡng cần thiết cho trẻ dưới 1 tuổi
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Xem phiên bản đầy đủ với định dạng thích hợp.
Dinh dưỡng cần thiết cho trẻ dưới 1 tuổi

Trẻ dưới 1 tuổi thì lượng thức ăn và sự ngon miệng của trẻ khác nhau từng ngày. Điều này là hết sức bình thường và sẽ không gây ra bất cứ vấn đề nào cho trẻ nếu con bạn phát triển tốt.


[Image: dinh_duong_tre_duoi_1tuoi-1.JPG]

Cai sữa và chuyển sang chế độ ăn dặm
Khi bắt đầu tập cho trẻ ăn dặm các đồ ăn đơn giản khác nhau, đây có thể xem là thời gian “cai” sữa. Đây là thời điểm trẻ được chuyển từ việc chỉ ăn sữa sang việc ăn các thức ăn dặm. Khoảng từ 12 tháng tuổi trở lên, trẻ sẽ sẵn sàng để ăn các thức ăn thông thường trong gia đình.

Ăn dặm quá sớm có thể gây nên vấn đề
Trẻ khi đói phải được cho bú sữa mẹ hoặc các loại sữa công thức khác cho đến khi chúng sẵn sàng ăn dặm. Một số bậc phụ huynh muốn thử cho con ăn dặm dưới 4 tháng tuổi vig nghĩ rằng điều này có thể giúp trẻ tăng trưởng nhanh hơn, ngủ ngon hơn hoặc cứng cáp hơn.

Cho ăn dặm quá sớm ít khi đạt được điều này và lại dẫn đến các vấn đề khác cho trẻ, bao gồm:
Tăng nguy cơ dị ứng thức ăn
Tăng trưởng chậm, nếu các thức ăn này thay thế hoàn toàn sữa mẹ hoặc sữa công thức.
Phân không tốt hoặc tiêu chảy, nếu như trẻ không tiêu hóa được các thức ăn này.
Không ăn dặm quá muộn

Ăn dặm cũng không được để quá muộn vì điều này có thể gây ra một số vấn đề dinh dưỡng ở trẻ bao gồm:
Tăng trưởng chậm do thiếu hụt năng lượng
Thiếu máu và thiếu sắt
Thiếu hụt kỹ năng ăn uống, đặc biệt nếu không bắt đầu được ăn dặm trước khoảng 7 đến 9 tháng tuổi.

Tập ăn dặm bắt đầu từ khoảng 6 tháng tuổi
Sữa mẹ và sữa bột là thức ăn quan trọng nhất cho trẻ dưới 12 tháng tuổi, nhưng thức ăn dặm phải được đưa vào đúng thời điểm. Vào khoảng 6 tháng tuổi, trữ lượng sắt của trẻ thấp, do đó trẻ cần được cung cấp các loại thức ăn khác ngoài sữa để tránh các vấn đề suy dinh dưỡng về sau này như thiếu sắt. Hãy bắt đầu tập cho trẻ ăn dặm từ khoảng 6 tháng tuổi, tùy thuộc vào các nhu cầu phát triển của trẻ.

Theo: Cachchuabenh.net

Tin liên quan:
Cách chăm sóc rốn cho trẻ sơ sinh tại nhà
Nguyên nhân dẫn đến việc dậy thì sớm ở trẻ em
Nguyên nhân gây bệnh viêm não ở trẻ em

Viêm não (encephalitis), một tình trạng viêm của nhu mô não, biểu hiện bằng sự rối loạn chức năng thần kinh-tâm thần khu trú hoặc lan tỏa.

Viêm não có thể biểu hiện dưới hai thể khác nhau: thể tiên phát và thể thứ phát. Viêm não tiên phát thường nặng nề hơn trong khi viêm não thứ phát thường gặp hơn. Tuy nhiên do thể thứ phát thường nhẹ nhàng hơn nên trong số các trường hợp nhập viện, viêm não tiên phát chiếm đa số.

Tin gốc: Nguyên nhân gây bệnh viêm não ở trẻ em

[Image: bung-phat-benh-viem-nao-viem-mang-nao-o-....com-1.jpg]

Nguyên nhân do các Arbovirus
Virus này được lây truyền thông qua muỗi và bét là những động vật chân đốt (arthropod) nên có tên là arbovirus (Arthropod-borne virus). Các virus này là nguyên nhân thường gặp nhất của viêm não dịch tễ. Trong những năm gần đây, viêm não dịch tễ chiếm số lượng bệnh viêm não cao nhất trong các công trình nghiên cứu đã được công bố. Ở Việt nam, điển hình là viêm não Nhật bản thường xuất hiện vào mùa hè khi mà lượng muỗi trong môi trường sống đạt mật độ cao nhất trong năm.

Các sinh vật truyền bệnh từ một cơ thể vật chủ này sang một vật chủ khác được gọi là vector truyền bệnh. Muỗi là một vector truyền bệnh quan trọng, đặc biệt là tryền virus từ chim và các động vật gặm nhấm sang người. Một điều đáng lưu ý là khi muỗi chích các động vật máu nóng (trong đó có người) thì trước khi hút máu chúng phải bơm nước bọt có chứa chất chống đông máu vào để thuận lợi cho quá trình hút máu. Tuy nhiên nếu muỗi này đã có chứa virus gây bệnh thì virus cũng theo nước bọt bơm vào đó để đi vào hệ tuần hoàn động vật bị hút máu.

Các loài chim sống trong khu vực có nhiều nguồn nước đứng như các ao, hồ, đầm lầy thường dễ nhiễm virus gây viêm não. Khi chim nhiễm virus viêm não, lượng virus trong máu của chúng tồn tại ở mật độ rất cao trước khi chim lành bệnh và xuất hiện miễn dịch chống bệnh. Nếu muỗi hút máu chim trong giai đoạn này thì chúng sẽ trở thành vector mang bệnh suốt đời. Chính muỗi mang virus gây bệnh này khi hút máu một con chim lành khác thì sẽ truyền vurus cho chim này và rồi có thể chim này lại chuyển virus gây bệnh cho một con muỗi khác nữa. Chính nhờ quá trình này mà virus được lưu hành rộng rãi trong quần thể các loài chim.

Thông thường thì phương thức truyền virus trên đây không ảnh hưởng gì đến sức khỏe của cả muỗi và chim và cũng không gây nguy hiểm cho con người. Một phần là do muỗi thường chỉ thích hút máu các loài chim và các động vật có vú nhỏ. Người chỉ là một lựa chọn thứ hai. Tuy nhiên trong điều kiện môi trường thay đổi như thời tiết bất thường hay thay đổi khí hậu, lượng chim nhiễm bệnh và lượng muỗi tăng lên rất nhiều. Trong những rường hợp như thế, người sẽ đứng trước nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn.

Ở Việt nam, Viêm não Nhật bản B là một đe dọa sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là trẻ em vào mùa hè. Xin xem thêm bài chính Viêm não Nhật bản.


Theo: Cachchuabenh.net

9 mẹo nhỏ chữa bệnh biếng ăn ở trẻ

Để trị bé biếng ăn cho trẻ thì có nhiều cách, bạn thử áp dụng 1 trong 9 cách sau xem có cải thiện được phần nào tình hình biếng ăn của bé không nhé!


1. Hãy giảm những bữa ăn vặt. Bạn thử xem liệu bé có hay ăn vặt không? Vài cái kẹo, một gói bim bim, tưởng như không là gì cả nhưng lại ảnh hưởng rất nhiều đến sự ngon miệng của trẻ.

2. Hãy giảm khẩu phần ăn của bé. Cho ăn quá nhiều quả không kích thích sự thèm ăn của bé chút nào. Trái lại là đằng khác - nó khiến trẻ sợ và ngán.

3. Hãy quan tâm đến tính đa dạng của các món ăn.
[Image: meo-chua-bieng-an-1.JPG]

Tags: 9 mẹo nhỏ chữa bệnh biếng ăn ở trẻ

4. Bạn chỉ nên gợi ý cho bé ăn khi đã đói. Trẻ em thường chối bỏ thức ăn chẳng qua vì chúng chưa kịp đói.

5. Khi đã quan sát được lúc nào bé thường thấy đói, bạn hãy cho bé ăn vào những giờ cố định. Trẻ em thích cuộc sống điều độ.

6. Đừng ép bé ăn cái mà nó không thích.

7. Bé không nhất thiết phải ăn hết khẩu phần ngay một lúc. Bạn hãy thử chia nhỏ khẩu phần của bé, ví dụ bé có thể ăn bữa giữa buổi sau lúc đi dạo, hoặc một bát cháo nhỏ trước lúc bé ra sân chơi với các bạn.

8. Bạn nên biết rằng "không" là một câu trả lời cần thiết. Không bao giờ ép bé ăn thêm thìa cuối cùng. Nếu bé nói rằng nó đã no, hãy để bé đặt bát xuống, còn bạn không bình luận gì về chuyện đó.

9. Bạn hãy quan tâm đến không khí của bữa ăn. Sự vội vã, lộn xộn, những xung khắc hàng ngày giữa bố và mẹ sẽ làm bé ăn mất ngon.

Theo: Cachchuabenh.net
Cách chăm sóc trẻ sơ sinh 2 tháng tuổi

Cách chăm sóc trẻ sơ sinh 2 tháng tuổi

Bé mới chào đời, cơ thể mới bắt đầu tập thích nghi với môi trường xung quanh, chính vì vậy cham soc tre so sinh 2 thang tuoi đúng cách sẽ giúp cho bé an toàn và chóng lớn. Vậy mẹ sẽ phải làm gì để bé phát triển toàn diện nhất?
[Image: cach-cham-soc-tre-so-sinh-2-thang-tuoi-11.JPG]

Tin gốc: Cách chăm sóc trẻ sơ sinh 2 tháng tuổi

Chăm bé ăn như thế nào?
Cho bé bú là khoảng thời gian tuyệt vời với cả hai mẹ con. Đây là lúc bé cảm nhận được rõ nhất sự ấm áp từ vòng tay mẹ, khuôn mặt yêu thương cùng giọng nói trìu mến của mẹ.
Hãy cho bé bú ngay sau khi sinh 30 phút để sớm có sữa non
Bé cần khoảng 150ml sữa/kg mỗi ngày.
Hãy làm cho bé dễ chịu trước khi bú bằng cách thay tã, vệ sinh sạch sẽ
Vỗ lưng cho bé ít nhất 1 lần khi cho bú, sau khi bú xong giữ bé trên vai và vuốt lưng cho bé.
Bé không cần bổ sung gì ngoài sữa mẹ, vì vậy mẹ vẫn cần bổ sung vitamin và khoáng chất để chất lượng sữa tốt hơn.

Lưu ý khi cho bé bú sữa và cham soc tre so sinh 2 thang tuoi
Không ép bé bú quá nhiều
Nếu bé bú bình thì không nên dốc ngược bình hay lắc để làm sữa chảy nhanh
Không cho bé ăn mật ong hay cháo pha đường, có thể gây ngộ độc hay sặc
Khi cho bé nằm cạnh bú, mẹ cần phải tỉnh táo hoặc có người trông nom, tránh trường hợp mẹ đè lên con mà không biết

Giữ vệ sinh cho bé
Thay tã và vệ sinh sạch sẽ cho bé thường xuyên. Cần xem xét phân của bé xem có tốt không
Nên rửa tay bằng xà phòng diệt khuẩn sạch sẽ trước khi đụng chạm tới bé
Cắt móng tay cho bé
Chăm sóc rốn cho bé đúng cách
Bạn có thể tắm cho bé hàng ngày, phải giữ nước ấm đúng nhiệt độ khoảng 37-40oC, tắm nhanh và lau khô cho bé kịp thời. Trong khi tắm cần tránh gió lùa.
Tránh cho bé tiếp xúc với các nguồn ô nhiễm: khói thuốc, bụi, sơn, mùi thức ăn…

Giữ an toàn cho bé
Đặt bé ngủ tại vị trí cố định và không nên thay đổi hoặc đặt bé ngủ ở nhiều nơi. Vị trí ngủ có thể là cũi, giường, nhưng phải kê lót xung quanh cẩn thận. Không để bé ngủ một mình, cần có người theo dõi.
Không cho bé đi xa hoặc di chuyển quá nhiều.
Không sử dụng thức ăn hay đồ uống nóng khi bế bé vì có thể rơi vào người bé.
Nên tắm nắng thường xuyên trong vòng 15-30 phút nhưng là nắng sớm (trước 8h) tránh nắng gắt chiếu vào bé.
Giữ nhiệt độ phòng hợp lý, tránh nắng chiếu, gió lùa.
Luôn có số điện thoại khẩn cấp để liên lạc với người nhà, bác sĩ khi cần

Chơi cùng bé
Hãy tạo nhiều bộ mặt khi gần bé. Cố làm theo những tiếng động và bộ mặt bé làm.
Hãy nói chuyện nhẹ nhành vào tai bé. Cho bé nghe nhạc
Nâng bé lên vai bạn để bé có thể thấy xung quanh. Đỡ đầu khi ẵm bé.
Cho bé thấy những bức tranh và những mẫu hình đơn giản có màu sáng và có trang trí, cách mặt bé khoảng 20-30 cm.

Còn tiếp (......................................)


Theo: Cachchuabenh.net
hay quá.thanks chủ thread thông tin quá hữu ích
5 kinh nghiệm chia sẻ với bạn khi chăm sóc trẻ sơ sinh

1. Cho bé nằm gối cao: Gối đầu quá cao hay quá thấp đều không tốt cho trẻ sơ sinh. Đầu của bé sơ sinh tương đối to, nếu gối quá thấp dễ làm cho bé bị trớ, nhưng nếu gối quá cao sẽ làm ảnh hưởng đến việc hô hấp của bé. Gối thích hợp với bé cao khoảng 3-4cm. Cần thay đổi độ cao cho gối khi bé lớn dần.

[Image: cham-soc-tre-so-sinh1.JPG]

Tin gốc: 5 kinh nghiệm chia sẻ với bạn khi chăm sóc trẻ sơ sinh

3. Tắm quá nhiều: Da bé rất nhạy cảm với chất sừng mềm và mỏng. Tắm quá nhiều hoặc sử dụng xà phòng có tính kiềm mạnh thì sẽ làm trôi mất lớp mỡ trên bề mặt da và giảm chức năng kháng khuẩn tự nhiên của da.

5. Để bé ngủ trong phòng có điều hòa: Phòng điều hòa, không có không khí tươi mới nên lượng oxy rất ít, vi sinh vật gây bệnh dễ sinh sôi nảy nở trong khi sức đề kháng của trẻ còn non nớt. Trẻ sẽ dễ bị ốm do nóng lạnh thất thường trong khi đường hô hấp chưa phát triển toàn diện.

Còn tiếp (................................................)

Cachchuabenh.net (TH)
Nguyên nhân và cách xử trí khi trẻ biếng ăn

Cachchuabenh.net xin đưa ra một số nguyên nhân và biện pháp khắc phục tình trạng trẻ bị biếng ăn cho trẻ nhỏ trong độ tuổi từ 1 đến 5 tuổi.

Tin gốc: Nguyên nhân và cách xử trí khi trẻ biếng ăn

[Image: treba.jpg]

Nguyên nhân khiến trẻ chán ăn

Từ 1 đến 5 tuổi, nhiều trẻ thường chỉ tăng 1,8-2,2 kg mỗi năm. Trẻ ở độ tuổi này vẫn được coi là bình thường nếu 3-4 tháng không tăng cân nào. Bởi trẻ không tăng trưởng nhanh, chúng cần ít năng lượng và dường như không có cảm giác thèm ăn (điều này được gọi là biếng ăn sinh lý). Việc trẻ lựa chọn ăn bao nhiêu được kiểm soát bởi trung tâm thèm ăn trong não. Trẻ ăn đủ với mức chúng cần để tăng trưởng và duy trì hoạt động.

Nhiều bố mẹ cố gắng ép con ăn nhiều hơn mức bé cần vì họ sợ việc con lười ăn có thể khiến sức khỏe kém và thiếu dinh dưỡng. Điều này không đúng, và việc ép ăn thực sự làm bé càng chán ăn.

Bố mẹ có thể làm gì để giúp con?

- Để con được quyết định lượng ăn bao nhiêu trong bữa ăn.

- Tin vào trung tâm thèm ăn trong não của trẻ. Trẻ ăn đủ mức bé cần. Não của con bạn sẽ đảm bảo bé ăn đủ năng lượng để duy trì hoạt động và phát triển.

- Mang đến cho con bữa ăn cân bằng, đủ chất. Nếu bé đói, bé sẽ ăn. Nếu bé không đói, bé sẽ ăn nhiều hơn vào bữa sau. Thậm chí nhắc nhở con ăn hay ép bé ăn nhiều hơn sẽ khiến trẻ chống đối.

- Cho bé ăn một bữa phụ nhỏ giữa các bữa chính. Lý do phổ biến nhất mà một số trẻ không bao giờ cảm thấy đói là chúng ăn quá nhiều đồ ăn vặt. Hãy để bé vào bữa chính với chiếc dạ dày rỗng. Nên cho bé ăn không quá hai bữa phụ mỗi ngày, với các thực phẩm bổ dưỡng. Nên để bữa phụ bằng 1/3 lượng của bữa chính.

- Khi trẻ khát giữa bữa ăn, hãy cho bé uống nước. Hạn chế lượng nước quả bé uống dưới 178ml mỗi ngày. Có thể cho con bỏ qua bữa phụ nếu bé không thích. Thậm chí nhịn vài bữa ăn cũng không hại gì.

- Không bao giờ xúc cho con ăn nếu bé đã có khả năng tự xúc ăn.

- Bố mẹ của những trẻ lười ăn có khuynh hướng xúc đầy thìa thức ăn, làm trò và cố gắng "lừa" để con há miệng. Khi trẻ đủ lớn để xúc (thường là 12-15 tháng) không bao giờ đút cho con ăn. Nếu con bạn đói, bé sẽ tự xúc ăn. Ép ăn là nguyên nhân chính của những "trận chiến" ăn uống.

- Cho con ăn bốc nhiều hơn. Ăn bằng tay có thể bắt đầu từ khi bé 6-8 tháng. Cách này cho phép bé tự ăn khi chưa biết cách dùng thìa.

- Giới hạn lượng sữa con uống mỗi ngày khoảng dưới 480ml. Sữa chứa nhiều năng lượng như đồ ăn dặm. Uống quá nhiều sữa hay nước quả có thể khiến bé no và không còn muốn ăn.

- Cho con ăn từng lượng nhỏ - ít hơn phần bạn nghĩ con sẽ ăn được. Bé sẽ chán ăn nếu bố mẹ bày ra lượng thức ăn quá nhiều. Nếu bạn mang đến cho con một ít đồ ăn, bé sẽ có nhiều khả năng ăn hết và thấy vui sướng vì điều đó. Nếu bé muốn ăn thêm, bạn hãy đợi con yêu cầu. Tránh cho bé ăn những thực phẩm mà con cực kỳ ghét (ví dụ như một số loại rau).

- Xem xét việc bổ sung vitamin hằng ngày cho trẻ. Việc này không hại với liều lượng thông thường và có thể giúp bạn đỡ lo lắng về khả năng ăn uống của con.

- Tạo sự dễ chịu khi ăn. Kéo bé vào cuộc trò chuyện vui vẻ trong bữa ăn. Tránh biến giờ ăn thành "cuộc chiến" với những lời chỉ trích, hò hét, ép buộc.

- Tránh trò chuyện về việc ăn uống của trẻ. Đừng tranh luận về việc bé ăn ít thế nào với người khác. Tương tự, đừng khen ngợi khi con ăn được nhiều. Trẻ nên ăn vì chính bản thân chúng chứ không phải để làm hài lòng bố mẹ.

- Không kéo dài bữa ăn. Đừng bắt con ngồi trong bàn ăn tối sau khi mọi người trong gia đình đã ăn xong. Điều này sẽ chỉ khiến bé tăng cảm giác khó chịu về bữa ăn.

Theo: Cachchuabenh.net
Nguyên nhân và cách khắc phục sự thay đổi thân nhiệt của trẻ

1. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi thân nhiệt ở trẻ

- Khi mới sinh, khả năng điều chỉnh thân nhiệt của trẻ với hiện tượng bị nhiễm lạnh rất hạn chế. Bởi vậy mà trẻ rất dễ bị hạ thân nhiệt và có biểu hiện sút cân.

- Ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ sinh non thiếu tháng, lớp mỡ dưới da rất mỏng nên khả năng giữ nhiệt rất kém. Bởi vậy, vào mùa đông trẻ rất dễ bị cảm lạnh.

- Nếu không được bú sữa mẹ, con sẽ bị thiếu dinh dưỡng và đây là một trong những nguyên nhân gây hạ thân nhiệt trầm trọng dẫn đến việc mắc bệnh nhiễm khuẩn và suy dinh dưỡng.

[Image: doi-dieu-cham-soc-tre-moi-sinh-3.jpg]


2. Cách khắc phục

Thân nhiệt bình thường của trẻ sơ sinh được duy trì từ 36 - 37 độ. Đây là nhiệt độ để duy trì sự trao đổi chất bình thường. Ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ sinh non, chức năng điều hòa thân nhiệt rất kém nên khi sự thay đổi nhiệt độ môi trường vượt quá khả năng cơ thể tự điều chỉnh có thể gây sốt hoặc hạ thân nhiệt đột ngột.

Các chuyên gia sức khỏe trẻ em khuyên rằng, vào mùa đông, nhiệt độ ở trong nhà nên được duy trì ở 25 - 28 độ C. Để duy trì nhiệt độ này, người lớn có thể bật điều hòa hoặc hệ thống thông gió. Tuyệt đối không nên quấn tã hoặc cho trẻ mặc quần áp quá chật.

Khả năng tự làm mát bằng mồ hôi ở trẻ sơ sinh rất kém và không ổn định. Trong trường hợp thời tiết quá nóng, nhiệt độ cơ thể trẻ có thể tăng lên đến 40 độ C hoặc gây co giật. Vào mùa đông, nhiệt độ thấp khiến da trẻ có thể bị sưng, mẩn đỏ. Tất cả những điều trên đều không tốt cho sức khỏe của con. Bởi vậy, việc duy trì một nhiệt độ phù hợp cho cơ thể trẻ là vô cùng quan trọng.

Ngoài ra, người lớn nên bật hệ thống sưởi ấm trong nhà để giúp bàn tay và bàn chân trẻ không bị lạnh. Ở trẻ sơ sinh, nhiệt độ cơ thể dễ bị thay đổi bởi nhiệt độ môi trường bên ngoài. Nếu người lớn không chú ý, con có thể bị cảm lạnh.

Nếu nhiệt độ bên ngoài là dưới 10 độ thì hãy cho trẻ sơ sinh mặc áo bông độn. Từ 10 đến 15 độ thì hãy cho trẻ mặc áo khoác và phủ một chiếc chăn. Từ 16 đến 21 độ, mẹ hãy cho bé mặc bodysuit. Từ 29 đến 30 độ, hãy cho con mặc áo thun thấm mồ hôi, áo cần phải đủ dài để che bụng của trẻ.

Độ ẩm trong nhà nên duy trì từ 60 đến 65%. Khi con quấy khóc, hãy để ý xem quần áo hay nhiệt độ có phải là nguyên nhân khiến con khó chịu hay không.

Còn vào mùa hè, các mẹ cần chú ý để thân nhiệt con không bị tăng quá cao. Khi thân nhiệt trẻ trên 38 độ C, da sẽ nóng và rất đỏ gây vã mồ hôi, tăng nhịp tim, nhịp thở, gây suy hô hấp và mất nước.

Khi đó, cần khẩn trương tìm nguyên nhân gây sốt ở trẻ như nhiễm khuẩn, mất nước; hoặc do ủ ấm và nhiệt độ trong phòng của trẻ quá cao. Trẻ sơ sinh có thể bị tăng thân nhiệt trong những ngày sút cân sinh lý. Việc đầu tiên cần làm để giúp trẻ hạ thân nhiệt chính là điều chỉnh nhiệt độ phòng, cởi bớt quần áo cho trẻ, tránh gió lùa và hãy cho con bú.

Nguồn: http://suckhoetreem365.blogspot.com/2013...-thay.html

Cachchuabenh.net - Tổng đài tư vấn 1900.8909
12 sai lầm cần tránh khi chăm sóc trẻ sơ sinh

Tổng đài tư vấn sức khỏe trẻ em - 1900.8909

1. Mẹ kiêng ăn

Một số người nghĩ rằng bà mẹ phải kiêng ăn mới tốt cho sức khoẻ bà mẹ và có nguồn sữa tốt cho bé. Nhiều trường hợp chỉ cho bà mẹ ăn cơm với muối, hay thịt kho thật mặn, kiêng cữ canh, rau, trái cây. Điều này làm cho bà mẹ khó ăn uống, thiếu năng lượng, mệt mỏi, táo bón, thiếu canxi. Trong khi nhu cầu dinh dưỡng bà mẹ cao để bù năng lượng mất do cuộc sinh và phải cho bú mẹ. Làm sao mẹ có được nguồn sữa mẹ tốt nếu ăn uống quá kiêng khem! Do đó, cách tốt nhất là cung cấp đủ nguồn dinh dưỡng cho bà mẹ đang cho con bú. Ăn uống đủ thành phần thịt, cá, trứng, rau, trái cây. Cho mẹ uống sữa thêm, uống nhiều nước, nghỉ ngơi hợp lý mới khỏe mạnh và có nhiều sữa nuôi con khỏe mạnh được.

[Image: Chamsoctre.jpg]

2. Kiêng tắm

Đây là tập quán thường gặp vì sợ bà mẹ bị lạnh. Dĩ nhiên sau sinh bà mẹ mất máu, mệt mỏi nên dễ bị lạnh. Cách tốt nhất là “bồi bổ” bà mẹ bằng cho ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý, tạo tinh thần thoải mái. Mẹ sẽ khỏe và chống được lạnh. Việc không vệ sinh sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nguy hiểm cho mẹ và con. Chúng ta biết rằng, mọi người cần tạo ra và chăm bé trong môi trường thông thoáng vệ sinh, tuân thủ rửa tay trước và sau khi chăm sóc bé.

3. Nằm phòng tối sau sinh

Mẹ và em bé nằm trong căn phòng tối lờ mờ sẽ gây nhiều khó khăn trong chăm sóc và ảnh hưởng xấu đến trẻ. Trong căn phòng tối này, bạn khó phát hiện vàng da sớm ở bé. Nhiều trường hợp khi mang bé ra ánh sáng thì nhận ra bé bị vàng da nặng tới lòng bàn tay bàn chân, hậu quả là nguy cơ tử vong và di chứng thần kinh tâm thần rất cao. Thiếu ánh sáng mặt trời sẽ làm tăng nguy cơ thiếu vitamin D, sẽ làm trẻ khóc đêm liên lục, dễ giật mình, ọc sữa, còi xương. Trong phòng tối bạn cũng khó phát hiện những bất thường ở trẻ như mụn mủ da, khó nhìn rõ để chăm sóc bé được tốt và nhiều khi phòng tối lại kèm quá kín gây không khí tù đọng, hôi hám nên nguy cơ nhiễm trùng sẽ rất cao.

4. Băng kín rốn

Nhiều người nghĩ rằng băng kín rốn giúp bảo vệ rốn. Thực sự việc băng kín rốn sẽ “giúp tạo môi trường tốt cho sự sinh sôi vi trùng” gây nhiễm trùng rốn và chậm rụng rốn. Bạn nên để hở rốn sau khi chăm sóc rốn, quấn tả dưới rốn, chỉ phủ lớp mỏng áo lên rốn để dễ quan sát rốn, rốn sẽ mau khô, nhanh rụng, ít nhiễm trùng, ít tạo chồi rốn.

5. Đắp rốn với sái á phiện, phân bò

Những biện pháp này làm tăng nguy cơ nhiễm trùng rốn, hoặc làm trẻ chướng bụng, ngưng thở do ngộ độc á phiện.

6. Cho trẻ uống nước cam thảo

Để trẻ ọc sạch đàm nhớt. Uống cam thảo sẽ làm tăng nguy cơ xuất huyết nguy hiểm ở trẻ do đó không được dùng.

7. Nằm than

Đây là biện pháp thường dùng giúp bà mẹ và em bé được ấm. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, có nhiều biện pháp hiệu quả và khoa học hơn giúp giữa ấm bà mẹ và em bé. Trong khi đó nhiều trường hợp bé bị ngộ độc do khí CO từ than, bị bỏng, hoặc mụn mủ, viêm mô tế bào vùng lưng rất nguy hiểm. Do vậy, không nên nằm than sau sinh.

8. Rơ miệng ở các “bà thầy lang”

Khi trẻ bị đẹn miệngtưa miệng làm cho trẻ bị trầy xước hầu họng, chảy máu nguy hiểm. Như chúng ta biết, tưa miệng là do nấm gây ra, thường xảy ra ở trẻ bú bình. tưa miệng có thể điều trị an toàn và dễ dàng bằng đánh lưỡi nhẹ nhàng với Mycostatin.

9. Mang trẻ “đi phán” khi trẻ bệnh

Việc này làm chậm trễ việc điều trị cho em bé. Nhiều lúc bé bị những biến chứng do những “thủ thuật” sử dụng khi “phán”, chẳng hạn như bỏng.

10.Cho rằng tất cả trẻ sơ sinh bị vàng da

“vàng da sinh lý”, và “sẽ khỏi” sau 1 tuần: như chúng ta biết, 20 – 50% trẻ sau sinh có vàng da, nhưng vàng da sinh lý chỉ là một trong những nguyên nhân. Nhiều trường hợp trẻ vàng da rất sớm trong 1 – 2 ngày đầu, vàng da nặng lan tới bàn tay, bàn chân. Đây không phải là vàng da sinh lý và sau một tuần không tự khỏi được mà sẽ chết hay di chứng vĩnh viễn nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Do đó, hàng ngày cần quan sát màu da trẻ dưới ánh sáng mặt trời để phát hiện vàng da. Nếu trẻ vàng da sớm trong 1 – 2 ngày đầu sau sanh, hoặc vàng da qua rốn, vàng da tới lòng bàn tay, bàn chân, vàng da kèm bú kém, bỏ bú, gồng người bạn cần mang đến cơ sở y tế để được điều trị vì đây là vàng da nặng.

11. Dễ dàng thay thế sữa mẹ bằng sữa bình

Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ sinh. Cho trẻ bú mẹ là bạn mang đến cho trẻ nguồn dinh dưỡng, tình thương và sự an toàn. Trẻ sẽ thông minh hơn, ít bệnh hơn. Bạn nên cho trẻ sơ sinh bú mẹ hoàn toàn, không ăn hay uống thêm thứ gì khác. Bà mẹ cho bé bú theo nhu cầu của trẻ, kết hợp chế độ ăn uống và nghỉ ngơi tốt cho bà mẹ, chắc chắn bà mẹ sẽ đủ sữa cho con bú.

12. Không rửa tay khi chăm sóc trẻ sơ sinh

Rửa tay là biện pháp đơn giản và hiệu quả phòng chống nhiễm trùng trong đó có nhiễm trùng sơ sinh. Bạn nhớ rửa tay trước và sau khi chăm sóc trẻ sơ sinh.

Lưu ý: Trên đây là những thông tin tham khảo về một số sai lầm khi chăm sóc trẻ sơ sinh. Hãy gọi đến tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn về các vấn đề sức khỏe trẻ em.

Nguồn: http://suckhoetreem365.blogspot.com/2013...c-tre.html

Theo: Cachchuabenh.net
Bước đầu dạy học cho trẻ từ 1 đến 3 tháng tuổi

Trong những tháng đầu đời bạn cũng nên bắt đầu dạy bé những bước đầu tiên của cuộc đời.

[Image: cham-soc-da-cho-tre-so-sinh-va-tre-em-vn.jpg]

Trẻ sơ sinh sẽ học được những gì trong ba tháng đầu tiên?

Ở giai đoạn này, bé cũng học cách xòe và nắm bàn tay. Bé bắt đầu khám phá môi trường xung quanh bằng đôi tay, biết cách sờ và cầm được món đồ chơi yêu thích. Đặc biệt, bé sẽ thường xuyên nghịch tay và chân của mình, coi chúng như một trò giải trí. Bé thích nhìn chằm chằm vào bàn tay của bé, chơi với các ngón tay hoặc đưa tay vào miệng mút.

Sau khi học cách nhận ra giọng nói, khuôn mặt, mùi cơ thể… của mẹ, bé sẽ bắt đầu giao tiếp với mẹ nhiều hơn ví dụ như là cười với mẹ.

Trẻ sơ sinh thường chưa nhận biết được giờ giấc, bé có thể ngủ vào ban ngày và thức vào ban đêm. Bé cũng bắt đầu tò mò hơn về cha mẹ mình và những thứ bé nhìn thấy xung quanh. Trong những tháng đầu tiên này, mẹ hãy thường xuyên nói chuyện với bé và mua cho bé những món đồ chơi nhỏ nhắn đầy màu sắc.

Mẹ sẽ thấy được tính cách của bé trong tháng đầu tiên hoặc tháng thứ 2 sau khi sinh. Trẻ sơ sinh phụ thuộc rất nhiều vào những người thân yêu xung quanh để bắt đầu học cách tương tác. Vào cuối tháng thứ 3, bé sẽ học cách biểu hiện khuôn mặt, phát âm, cử chỉ….

Thị lực của bé dần được cải thiện, bởi thế bé có thể phân biệt được các địa điểm, cảnh quan khác nhau. Bé rất thích thú khi nhìn những màu sáng, vật thể ba chiều. Từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 4, hầu hết trẻ sơ sinh đều có thể rít lên khi vui và cười thành tiếng.

Các mẹ nên khuyến khích bé học những gì?

Các mẹ cũng nên mua cho bé những đồ chơi nhiều màu sắc với hình dạng, kích thước khác nhau để bé học cách nhìn nhận và khám phá. Đây là độ tuổi tốt để dạy bé cách cố gắng làm việc gì đó mà mình muốn.

Các mẹ có thể rèn cho bé bằng cách cầm một món đồ chơi yêu thích của bé và để ra xa nhưng vẫn trong tầm với của bé. Bé sẽ dễ dàng học được cách cố gắng để đạt được mục tiêu ngay từ khi mới sinh.

Khi bé ê a nói chuyện hoặc rít lên, các mẹ cũng nên làm lại y hệt như vậy để khuyến khích bé phát triển khả năng giao tiếp. Thông qua những trao đổi này, bé sẽ nghe được âm thanh về ngôn ngữ và phần nào nhận thức được về cuộc trò chuyện giữa hai mẹ con.

Một vài ý tưởng khác để khuyến khích bé vừa học vừa chơi:

1. Nói chuyện với bé, hỏi bé nhiều câu hỏi để bé ê a trả lời. Cách làm này sẽ giúp bé phát triển khả năng giao tiếp rất tốt.

2. Mỗi khi các mẹ hài lòng hay thích thú với những gì bé làm hãy khen ngợi bé và gọi tên bé.

3. Dạy bé cách vỗ tay, dang hai tay sang ngang, giơ tay lên trời... vừa như một bài tập thể dục cho bé vừa kích thích sự năng động của bé.

4. Nhẹ nhàng di chuyển đôi chân của bé giống như đang đạp xe đạp. Việc làm này sẽ giúp các cơ của bé phát triển, đến giai đoạn bé tập đi thì chân bé sẽ cứng cáp hơn.

5. Sử dụng một món đồ chơi yêu thích của bé giơ lên cao, xuống thấp, sang phải hoặc sang trái để bé tập trung nhìn theo, giúp mắt bé nhanh nhạy hơn khi quan sát.

6. Làm nhiều nét mặt khác nhau để bé bắt chước. Bé sẽ học được cách biểu lộ cảm xúc của mình qua gương mặt.

7. Ở tháng thứ 2, nếu điều kiện thời tiết tốt, các mẹ nên cho bé ra ngoài đi dạo để bé cảm thấy thoải mái hơn cũng như để bé có điều kiện khám phá thế giới rộng lớn bên ngoài.

Chú ý: Nếu có gì thắc mắc bạn hãy gọi đến tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn về các vấn đề sức khỏe trẻ em.

Tags: http://suckhoetreem365.blogspot.com/2013...thang.html

Theo: Cachchuabenh.net
Cách bổ sung trứng hợp lý cho trẻ nhỏ

Chú ý: Nếu có những thắc mắc thêm về sức khỏe, bạn có thể gọi điện đến tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia.

Giá trị dinh dưỡng của trứng gà và trứng vịt là khác nhau vì thế các bà mẹ cần hiểu cách bổ sung trứng hợp lý cho trẻ trong thực đơn dinh dưỡng của trẻ, các bà mẹ cùng tìm hiểu dinh dưỡng của trứng gà và trứng vịt dưới đây:

Trước hết chúng ta cần biết giá trị dinh dưỡng của trứng như thế nào?

Thông thường 1 quả trứng gà ta nặng khoảng 40g (cả vỏ), 1 quả trứng vịt: 70g (cả vỏ), nếu bỏ vỏ thì 100g trứng gà tương đương 3 quả, còn 100g trứng vịt tương đương 1,5 quả.

[Image: bo-sung-trung-hop-ly.JPG]


Như vậy giá trị dinh dưỡng của trứng gà và vịt không khác nhau nhiều lắm, nhưng thành phần các vi chất dinh dưỡng thì trứng gà tốt hơn trứng vịt, hàm lượng kẽm, vitamin A của trứng gà cao hơn trứng vịt, trong trứng gà còn có cả vitamin D, một loại vitamin có rẩt ít trong thực phẩm, hàm lượng chất đạm của trứng gà cũng cao hơn trứng vịt, chất béo trong trứng gà thấp hơn nên ít gây đầy bụng khó tiêu, như vậy nên cho trẻ ăn trứng gà thì tốt hơn

[Image: Nhng-iu-cn-bit-khi-cho-be-n-trng-ga.jpg]

Cách chế biến trứng như thế nào là tốt nhất?

Không nên ăn trứng gà sống hay hòa tan trứng sống trong cháo nóng, canh nóng mà nên luộc hoặc nấu chín để phòng nhiễm khuẩn... Đường sinh dục của gà có rất nhiều vi khuẩn nên cả trong và ngoài trứng gà đều có thể nhiễm khuẩn, đặc biệt là Salmonella - một yếu tố gây ngộ độc thức ăn.

Ngoài ra, trong lòng trắng trứng sống còn có một chất chống lại biotin (vitamin H), cản trở hấp thu dưỡng chất này. Vitamin H là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình sử dụng protein và đường - bột, cần thiết cho sự phát triển bình thường của cơ thể. Vì vậy, ăn trứng sống hoặc chín tái đều có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe.

Trứng gà rán hoặc ốp mà dùng lửa to thì dễ khiến bên ngoài cháy mà bên trong chưa chín. Lúc đó, lòng trắng trứng bị cháy sẽ khó hấp thu, lại tiêu hủy các vitamin tan trong nước như vitamin B1, B2, còn lòng đỏ chưa được tiệt khuẩn nếu có. Vì vậy, khi rán hoặc ốp trứng, nên để lửa nhỏ, thời gian lâu một chút cho lòng đỏ vừa chín là tốt.

Nếu ăn trứng gà sống, tỷ lệ hấp thu và tiêu hóa chỉ được 40%, ở trứng luộc là 100%, trứng rán chín tới 98,5%, trứng rán già 81%, trứng ốp 85%, trứng chưng 87,5%. Do đó tốt nhất là nên ăn trứng luộc chín tới, không những bảo đảm được chất dinh dưỡng như protein, lipid, khoáng chất... mà các vitamin cũng bị mất đi ít.

Lượng trứng cho trẻ ăn bao nhiêu là đủ?

Tuy trứng là thực phẩm rất tốt nhưng cũng không nên cho ăn quá nhiều, vì hàm lượng chất béo trong trứng cao làm bé dễ bị đầy bụng, khó tiêu rối loạn tiêu hoá tuỳ theo tháng tuổi mà cho ăn số lượng khác nhau :

Trẻ 6 -7 tháng tuổi: chỉ nên ăn ½ lòng trứng gà/bữa, ăn 2 – 3 lần/tuần

Trẻ 8 – 12 tháng tuổi: ăn 1 lòng đỏ/bữa ăn 3 – 4 bữa trứng 1 tuần

Trẻ 1 – 2 tuổi: nên ăn 3 – 4 quả trứng/tuần, ăn cả lòng trắng

Trẻ từ 2 tuổi trở lên nếu bé thích trứng có thể cho ăn 1 quả/ngày.

Lưu ý khi luộc trứng gà:

Không ít người khi luộc trứng thường cho rằng cho vào đun sôi chín là được, nên nhiều khi trứng bị nứt hoặc vỡ làm mất chất dinh dưỡng.

Cách luộc đúng là: Cho trứng cùng với nước lã vào nồi rồi đun sôi dần. Khi nước sôi, vặn nhỏ lửa đun khoảng 2 phút rồi tắt bếp ngâm trứng khoảng 5 phút. Như vậy, trứng vừa chín tới, lòng đỏ không bị chín kỹ quá, dễ hấp thu. Lúc luộc trứng, có thể cho thêm một ít muối để giữ cho trứng không bị vỡ.

Trứng vừa lấy ở tủ lạnh ra không nên luộc ngay, cũng không nên ngâm trong nước nóng hay luộc bằng lửa quá to vì dễ gây vỡ trứng, hoặc không chín lòng đỏ.

Sau đây là một số cách chế biến trứng cho trẻ tuỳ theo tháng tuổi :

Trẻ 6- 12 tháng: nên cho ăn bột trứng: cách nấu bột trứng: nấu chín bột, mới cho trứng, đập lòng đỏ trứng vào bát đã có rau băm nhỏ, đánh đều trứng và rau, nồi bột sôi trên bếp đổ trứng và rau vào quấy đều nhanh tay, bột sôi lên là được, không nên đun kỹ quá trứng khó hấp thu, cũng không nên luộc chín trứng rồi nghiền lòng đỏ nấu bột vì qua nhiều lần chế biến trứng khó hấp thu

Trẻ 1-2 tuổi: có thể ăn cháo trứng, cũng tương tự như nấu bột trứng, khi cháo chín mới cho trứng, đun sôi lại là được, ngoài ra có thể cho trẻ ăn trứng luộc vừa chín tới.

Trẻ từ 2 tuổi trở lên: có thể ăn cháo trứng, trứng luộc, trứng rán đúc thịt, trứng sốt cà chua ăn với cơm, tốt nhất là ăn trứng luộc chín tới.

Tags: http://suckhoetreem365.blogspot.com/2013...e-nho.html

Nguồn: Cachchuabenh.net