Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN - Atisô và nhiều điều chưa biết

Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN

Phiên bản đầy đủ: Atisô và nhiều điều chưa biết
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Xem phiên bản đầy đủ với định dạng thích hợp.
Vào thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên người Hy Lạp cổ đại và người Rô-man sử dụng ati sô chủ yếu như một phương thuốc chữa bệnh đường tiêu hóa. Vào thế kỉ 16, ati sô được ghi chép lại là có tác dụng chữa bệnh về gan và bệnh vàng da. Năm 1850, một nhà vật lý trị liệu người Pháp đã chữa trị thành công cho một cậu bé mắc bệnh vàng da chỉ trong một tháng bằng việc sử dụng chiết xuất là ati sô. Điều này đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học về tác dụng chữa bệnh của lá ati sô. Ở Đức, chiết xuất lá ati sô được biết đến vào thế kỉ 17, nhưng đã không trở thành một loại thực phẩm phổ biến và một loại thảo dược có giá trị cho đến tân đầu thế kỉ 20.

Cây ati sô là một loài cây gai lớn có nguồn gốc từ Châu Âu, Nam Phi và quần đảo Canary, gần đây loại cây này còn được trồng ở các vùng phía nam Châu Âu và Nam Mỹ. Về mặt dược lý, chiết xuất ati sô được điều chế từ những lá cây ati sô đã được lựa chọn kĩ có chiều dài đáng kể và có răng cưa tương đối sâu nằm về phía gốc đế thông qua các chu trình sản xuất tiêu chuẩn cao. Rễ và ngọn hoa cũng có chứa các thành phần có ích, tuy nhiên các thành phần này tập trung chủ yếu ở lá cây ati sô.

Nghiên cứu lâm sàng đầu tiên về chiết xuất của lá ati sô và mối liên hệ của nó tới tình trạng gan của bệnh nhân đã được thực hiện vào những năm 1930 với những kết quả khả quan. Từ năm 1954 trở đi, Cynarin (một trong những hoạt chất quan trong có trong chiết xuất ati sô) đã được điều chế nhiều hơn như là một thành phần hiệu quả của ati sô. Vào những năm 1990 nhiều nghiên cứu y học hơn đã được thực hiện nhằm kiểm chứng chiết xuất ati sô và khả năng chữa trị của nó. Từ thời điểm này, rất nhiều những nghiên cứu xuất sắc đã đem lại những kết quả tích cực. Chúng ta đã phát hiện ra những hoạt chất chính của cây ati sô và có một hiểu biết sâu rộng hơn về cơ chế hoạt động của chúng trong cơ thể con người.

Lợi ích của chiết xuất ati sô đối với sức khỏe

Chiết xuất lá ati sô có tác dụng lợi mật, giảm mỡ, giải độc và bảo vệ gan. Hơn nữa, Chiết xuất này cũng đã được chứng minh là có khả năng giảm các cơn đau vùng bụng kéo dài. Những nghiên cứu gần đây còn cho thấy ati sô có thể chống nôn mửa và khả dụng cho các chỉ định về các chứng khó tiêu. Với những kết quả lâm sàng và thực nghiệm này, các nhà nghiên cứu đã khẳng định chiết xuất lá ati sô phù hợp cho việc điều trị dạ dày mãn tính và các triệu chứng liên quan đến gan và mật đặc biệt ở các bệnh nhân có mỡ máu cao.

Chiết xuất ati sô là một trong số ít các loại thảo dược mà kiểm nghiệm lâm sàng và thực nghiệm cho kết quả phù hợp với nhau. Kết luận về tác dụng lâm sàng cũng như thực nghiệm được kiểm chứng thông qua các nghiên cứu sinh dược với tiêu chí khắt khe. Cụ thể, tác dụng giải độc, bảo vệ gan mật, nâng cao chất lượng mật và tác dụng giảm mỡ đã được khẳng định, chính xác như nó vẫn được sử dụng trong lịch sử y học.

Các hoạt chất có trong chiết xuất ati sô

Lá của cây ati sô chứa một lượng lớn và đa dạng các hoạt chất dược lý, trong đó bao gồm các nhóm quan trọng có axit caffeeolyquinic (CCS), flavonoids và các chất đắng. Bên trong các nhóm này có các thành phần như axit caffeic, axit chlorogenic, cynarin (axit 1,5-dicaffeolyquinic), luteolin, glycoside, scolymoside và cynaroside. Trong số các chất quan trọng nhất thuộc nhóm CCS, những thành phần được chiết xuất đầu tiên là 1,3-Di-O-CCS, axit choloregenic và Cynarin không tinh khiết. Cynarin ban đầu được hiểu lầm là một hoạt chất đơn lẻ trong chiết xuất ati sô và thường được sử dụng độc lập. Tuy nhiên, những nghiên cứu sâu hơn cho thấy một số hoạt chất khác cũng đóng vai trò quan trọng đối với hiệu quả của tác dụng giải độc của ati sô. Thực tế, toàn bộ phức hợp thành phần có mức hoạt động tương tự và đem lại nhiều lợi ích đáng kể.

Ati sô hoạt động như một thảo dược

Những tác dụng tích cực cho sức khỏe của chiết xuất là ati sô có nguồn gốc chính là từ sự gia tăng lượng mật trong cơ thể. Sự gia tăng các dòng mật kích thích việc tiêu hóa chất béo và hỗ trợ bảo vệ niêm mạc ruột nhờ vào lượng lớn bicarbonate có trong mật. Lượng đáng kể axit mật đi vào chỉ tràng gây ra quá trình co bóp ruột, giúp sự tiêu hóa diễn ra thuận lợi hơn. Khi cơ thể người hấp thu độc chất dưới rất nhiều dạng như thức ăn, nước uống và không khi, những độc chất này liên tục tấn công gan. Mật khi đó hoạt động như một người vận chuyển, đưa các chất này từ gan vào ruột để đào thải sau đó.

Khi quá trình tiết mật bị cản trở, các chất độc và cholesterol sẽ lưu lại trong gan và gây tổn hại nghiêm trọng đến gan. Sự cản trở các dòng mật được biểu hiện dưới dạng tắc ống mật hoặc sỏi mật. Những nguyên nhân khác có thể do ngộ độc rượu bia, viêm gan do virus hoặc một vài chất hóa học và dược phẩm nhất định.

Những giai đoạn đầu của bệnh gan và rối loạn chức năng gan thường khó chuẩn đoán do các phương pháp thử nồng độ serum bilirubin, alkaline phosphatase, SGOT, LDH và GGTP đều cho kết quả bình thường. Chỉ những phép thử này sẽ không thể cho kết quả chuẩn đoán gan đáng tin cậy.

Các nhà nghiên cứu người Đức đã kiểm nghiệm sự hỗ trợ mật của chiết xuất lá ati sô bằng thí nghiệm lâm sàng theo phương pháp double-blind. Thí nghiệm này chứng minh được rằng chiết xuất lá ati sô liều cao tăng lượng mật đi vào chỉ tràng của bệnh nhân khỏe mạnh so với các các bệnh nhân dùng giả dược. Sự tiết mật được đo bằng kĩ thuật đặc biệt ở một thời điểm nhất định sau khi cùng lúc bệnh nhân nhóm đầuuống một liều chiết xuất ati sô và bệnh nhân nhóm sau uống giả dược. Những bệnh nhân uống ati sô có lượng tiết mật cao hơn đáng kể so với bệnh nhân dùng giả dược.

Ati sô và tác dụng giảm mỡ

Người ta ước tính là ở Mỹ hiện nay có khoảng gần 100 triệu người có lượng serum LDL cholesterol cao hoặc tương đối cao, với hơn 1 triệu trường hợp bệnh tim tái phát mỗi năm. Một phần ba số trường hợp này có nguy cơ tử vong. Nguyên do là bởi thực phẩm họ sử dụng hàng ngày có chữa nhiều dầu hydro hóa, chất béo bão hòa, đường đã qua xử lý, và đặc biệt thiếu loại hoa quả có các dưỡng chất quan trọng. Thay vì bơ, các bác sĩ thường khuyên dùng margarine, tuy nhiên chất này lại làm tăng mỡ máu. Điều này xảy ra do margarine dễ mắc vào muối mật. Bởi vậy, margarine thực ra không hề có tác dụng giảm cholesterol như người ta vẫn nghĩ. Sử dụng quá nhiều loại thực phẩm này sẽ làm tăng cao lượng LDL cholesterol ngăn cản sự trao đổi cholesterol trong cơ thể.

Tổng lượng cholesterol bao gồm LDL (lipoprotein mật độ thấp) và HDL (lipoprotein mật độ cao). LDL bị oxy hóa có thể gây hại đến động mạch và gây hình thành các vùng sơ vữa động mạch ở người, trong khi ngược lại HDL lại rất có lợi. Theo viện Tim Mạch Quốc Gia Mỹ, mức LDL cholesterol nên ở dưới 130mg/dl còn mức HDL nên cao hơn 35 mg/dl với tổng số cholesterol không vượt quá 200 mg/dl. Mức Serum cholesterol từ 200 mg/dl trở lên là nguyên nhân chính dẫn đến các bệnh tim mạch – nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Mỹ hiện nay. Theo như viện Tim, Phổi và Máu Quốc Gia. Hai phần ba con số 100 triệu người lớn có mỡ máu cao hơn mức cho phép này lại không nhận được sự chữa trị nào đúng cách.

Thuốc giảm cholesterol và các tác dụng phụ

Có rất nhiều sản phẩm thuốc giảm cholesterol được bày bán trên thị trường và là lựa chọn chủ yếu trong việc điều trị mỡ máu cho rất nhiều người. Tuy nhiên, hầu hết các loại thuốc này có tác dụng phụ nghiêm trọng đưa người bệnh đến các bước điều trị sâu hơn. Gần đây trên các bản tin về y học tại Mỹ, Baycol (Lipobay) lại được nhắc đến sau khi nó gây ra ít nhất 100 ca tử vong. Baycol liên quan tới không ít các vụ việc có hiện tượng phản ứng tiêu cực của cơ được biết đến như là tiêu cơ vân, một tình trạng vô cùng nguy hiểm tới mạng sống của bệnh nhân khi mà các tế bào cơ bị vỡ và tế bào chất và các phần bên trong tràn vào đường máu. Người ta ước tính khoảng 700.000 người đã và đang sử dụng Baycol.

Ati sô

Chiết xuất lá ati sô đạt tiêu chuẩn y tế đã được chứng nhận về tính an toàn, không độc hại và tính tự nhiên khi được sử dụng để điều trị mỡ máu cao. Ati sô điều trị căn bệnh này thông qua hai cách khác nhau. Chiết xuất ati sô gia tăng lượng cholesterol bị chuyển vào muối mật, qua đó nâng cao số lượng mật được sinh ra và lưu chuyển, đồng thời điều chỉnh mức cholesterol sinh ra bên trong gan.

Nghiên cứu lâm sàng về chiết xuất ati sô

Trong một nghiên cứu rất đáng chú ý về tế bào gan của chuột, người ta phát hiện ra có sự ngăn cản quá trình tổng hợp cholesterol có tính tập trung và phụ thuộc cao. Nghiên cứu vào năm 1997 khẳng định chiết xuất lá ati sô giúp giảm sự hình thành cholesterol và baor vệ gan nhiều giờ đồng hồ sau khi dùng. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng chiết xuất lá ati sô cố khả năng hoạt động thông qua sự ngăn cản gián tiếp enzyme HMG-CoA reductase tương tự như tác dụng “statins”. Kết quả được khẳng định rõ hơn bởi thực tế là chiết xuất lá ati sô ngăn chặn sự kích thích HMG-CoA reductase có phụ thuộc vào insulin mà không làm ảnh hưởng đến insulin trong cơ thể. HMG-CoA reductase là enzyme chủ chốt trong việc hình thành cholesterol và thường làm giảm tổng lượng cholesterol, LDL cholesterol và mức triglyceride. Nghiên cứu của Gebhardt’s cũng cho thấy chiết xuất này không can thiệp vào những con đường khác dẫn đến việc tổng hợp cholesterol, điều này giải thích vì sao sẽ không xảy ra tác dụng tiêu cực do sự tích tụ tiền sterol.

Thêm vào các kết quả thu được từ các thí nghiệm trên cơ thể động vật, nhiều nghiên cứu cũng đã được tiếm hành trên tế bào gan người được cô lập. Vào năm 1995, Fintelmann công bố một bản báo cáo về cuộc điều tra với cấu trúc đa trung tâm trên 557 người được điều trị bằng chiết xuất đặc biệt từ lá ati sô. Trong thời gian 43 ngày rưỡi, liều dùng hàng ngày cho các bệnh nhân là 1,5 g chiết xuất. Ở mức bình quân, serum cholesterol đã giảm 11,5% và độ tập trung serum triglyceride giảm 12,5% ở các bệnh nhân có lượng cholesterol được kiểm tra thường xuyên (n=302).

Một ích lợi khác của chiết xuất là ati sô là vài trò của nó trong việc điều trị các triệu chứng khó tiêu (khó chịu vùng bụng, sôi bụng, trướng và ứ hơi, chứng rối loạn ruột kết và chức năng dẫn mật). Ngày càng nhiều các kiểm nghiệm lâm sàng được thực hiện càng minh chứng các ích lợi của chiết xuất là ati sô trong việc điều trị các chứng bệnh khó tiêu cũng như khả năng giải độc của loại thảo dược này.

Gần Đây, một cuộc nghiên cứu giám sát (hậu marketing) đã được thực hiện trên 553 bệnh nhân trong một khoảng thời gian đáng kể. Điều đáng chú ý trong nghiên cứu này là các triệu chứng đã giảm đáng kể trong vòng 6 tuần điều trị; 98% bệnh nhân tin rằng chiết xuất là ati sô thực sự tốt hơn hoặc tương đối tốt hơn so với việc điều trị sử dụng các loại thuốc khác.

Nhiều bằng chứng về tác dụng giải độc

Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các ích lợi quan trọng khác của ati sô đối với sức khỏe con người, trong đó tác dụng bảo vệ gan cũng đã được chứng minh. Chiết xuất lá ati sô bảo vệ gan khỏi những tác nhân gây hại tương tự như cây kế sữa. Như cây kế sữa, chiết xuất lá ati sô kích thích quá trình hồi phục các mô ở gan. Vào năm 1997, người ta đã phát hiện ra rằng axit chlorogenic và cynarin là các thành phần chính có tác dụng giải độc mạnh trong chiết xuất ati sô. Người ta ghi nhận rằng ati sô ngăn cản sự oxy hóa ở các màng gan, và có thể còn có tác dụng bảo vệ các tế bào ở nhiều vùng cơ thể khác.

Các cuộc thử nghiệm về các tác dụng lâm sàng của chiết xuất lá ati sô diễn ra trên khắp thế giới. Những thí nghiệm này bao gồm cả các mảng như HIV, ung thư và béo phì, hầu hết đều đem lại những kết quả hứa hẹn. Các cuộc điều tra tiếp tục tìm ra và ủng hộ việc sử dụng chiết xuất lá ati sô như một thảo dược tự nhiên.

Chiết xuất ati sô có an toàn không?

Chiết xuất lá ati sô được chấp nhận trong 95% các ca bệnh, với ít tác dụng phụ được ghi nhận khi sử dụng đúng liều dùng được chỉ định. Quan trọng hơn nữa, nhiều nghiên cứu ghi nhận hoàn toàn không có tác dụng tiêu cực trong việc sử dụng chiết xuất ati sô so với giả dược. Trong một nghiên cứu lớn, 1 trong 100 người tham gia có phát hiện ứ hơi, tuy nhiên chỉ là triệu chứng thoáng qua và không đáng kể. Đối với các loại chất tổng hợp từ hoa khác như hoa cúc hay cây thảo nhi, các triệu chứng dị ứng cục bộ đã được ghi nhận sau khi có tiếp xúc trên da với cây tươi hoặc khô. Do có tác dụng tăng lượng tiết mật, chiết xuất lá ati sô không nên dùng khi đang bị sỏi mật hoặc bị tắc ống mật. Phụ nữ có thai và sau khi sinh nên hỏi ý kiến chuyên gia trước khi sử dụng chiết xuất lá ati sô.

Nguồn : Dịch