Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN - Các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp ở bé

Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN

Phiên bản đầy đủ: Các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp ở bé
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Xem phiên bản đầy đủ với định dạng thích hợp.
Nhiễm khuẩn đường hô hấp hiện là nhóm bệnh phổ biến ở trẻ em, đặc biệt ở trẻ dưới 5 tuổi. Đây là nhóm bệnh có tỷ lệ mắc cao, tần suất mắc nhiều lần trong năm và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ trong độ tuổi này. Bệnh có nhiều thể viêm nhiễm khác nhau tùy mức độ nặng nhẹ. Dưới đây là một số thể phổ biến nhất hiện nay mà bé hay mắc phải.

Nhiễm khuẩn đường hô hấp ở trẻ em



1. Viêm mũi, viêm họng


Đây là thể bệnh thường gặp nhất, chiếm khoảng 50-70% số trẻ bị bệnh. Vì trẻ nhỏ chỉ thở bằng mũi (trong khi trẻ lớn và người lớn thở cả qua mũi và miệng) nên chỉ cần tắc mũi đã gây triệu chứng khó thở nặng.


Biểu hiện chủ yếu của thể này:

Sốt nhẹ, trẻ bị ho kèm viêm họng, chảy nước mũi, quấy khóc, khó bú, khó ngủ và thường thở há miệng do tắc đường thở chính là mũi.

Nhịp thở của trẻ nhanh hơn bình thường, đôi khi co rút lồng ngực, đầu gật gù theo nhịp thở nhưng ít khi bị tím tái.

Thành trước, thành sau họng và 2 tuyến hạnh nhân khẩu cái (amidan) bị viêm phù nề đỏ rực, nhưng ít khi có mủ.

Khoang mũi hẹp hoặc tắc hẳn do viêm phù nề, niêm mạc mũi đỏ rực, nhiều dịch xuất tiết trong hoặc đục như mủ, đôi khi quánh dính hoặc khô cứng thành cục dày bịt kín một hoặc cả 2 bên lỗ mũi.

Nguyên nhân chủ yếu gây viêm mũi, viêm họng ở trẻ nhỏ là các vi khuẩn, virut đường hô hấp; hàng đầu là vi khuẩn hợp bào đường hô hấp (>80%), rồi đến rihnovirus, adenovirus và các virut cúm A và B. Chính vì vậy, biện pháp điều trị chủ yếu là hỗ trợ, làm thông mũi họng bằng vệ sinh rửa sạch đường hô hấp trên bằng cách nhỏ các dung dịch sát khuẩn như nước muối sinh lý (dạng giọt hay dạng xịt khác nhau). Có thể dùng thuốc chống phù nề niêm mạc đường mũi họng loại gây co mạch nhẹ (nồng độ thấp) như otilin hay otrivin nồng độ 0,05% dành cho trẻ em, nhưng phải có sự chỉ định của bác sỹ. Thời gian dùng thuốc co mạch thường không quá 3-5 ngày. Chú ý không dùng kéo dài, không dùng loại thuốc co mạch có nồng độ cao của người lớn để nhỏ mũi cho trẻ em vì có thể gây tai biến nặng như co giật, hoại tử niêm mạc mũi.



2. Viêm thanh quản và nắp thanh quản cấp


Viêm thanh quản cấp:

Bệnh này khá phổ biến ở trẻ từ 6 tháng đến 5 tuổi, do virut đường hô hấp gây viêm phù nề cấp tính vùng thanh quản (2 dây thanh đới và vùng lân cận) làm chít hẹp hoặc tắc hẳn đường ra-vào phổi của luồng không khí. Bệnh thường xảy ra rất đột ngột về đêm, sau vài giờ viêm long đường hô hấp trên.


Biểu hiện của bệnh:

Khởi đầu trẻ ho nhiều và tiếng ho ông ổng, khóc khàn. Sau một vài giờ hay ngắn hơn, trẻ đột nhiên mất tiếng, mất ho, xuất hiện khó thở thanh quản cấp tính (khó thở chậm, khó thở vào, thở ngửa đầu ra sau, co kéo các cơ hô hấp phụ).

Bệnh sẽ trở nên rất nguy kịch và trẻ có thể ngừng thở nhanh chóng sau một thời gian gắng sức dữ dội để thở nhưng thất bại.

Cần đưa ngay trẻ có ho ông ổng và thở co kéo nặng đến bệnh viện để kịp thời cứu chữa. Chậm trễ trong chốc lát có thể trẻ tử vong ngay trước mắt người nhà và thầy thuốc, vì thanh quản phù nề nặng, không thể đưa ống nội khí quản qua để cho trẻ thở máy được nữa.

Nhiễm khuẩn đường hô hấp tại phổi ảnh nhiễm khuẩn đường hô hấp tại phổi(Viêm phổi là dấu hiệu bệnh nặng hơn của nhiễm khuẩn đường hô hấp)

Viêm nắp thanh quản cấp:

Bệnh này ít gặp hơn bệnh viêm mũi-họng, nhưng cũng là một trong những bệnh có khả năng gây tử vong cao nếu không phát hiện sớm và chữa trị kịp thời.

Bệnh chủ yếu do một loại vi khuẩn có tên là Hemophylus influenzae gây nên viêm cấp tính phù nề nắp thanh quản, làm lấp kín lối vào của luồng khí thông thường vào phổi qua thanh quản gây ngạt từ vừa đến nặng tùy theo mức độ phù nề của nắp thanh quản.

Biểu hiện của bệnh là trẻ thường không ho nhưng sốt rất cao, vật vã kích thích, bỏ bú và chảy nhiều dãi dớt do đau họng không nuốt được. Trẻ mắc bệnh này thường chỉ muốn ngồi vì dễ thở hơn, nếu trẻ nằm thường nắp thanh quản đóng kín đường thở, gây cho trẻ khó thở. Hạch dưới hàm thường sưng to và đau cả hai bên. Trẻ mắc bệnh này, nên đi khám các thầy thuốc có kinh nghiệm, chuyên môn và điều trị tại bệnh viện.

3. Viêm phế quản[/B]

Đây là bệnh lý nặng, thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, đặc biệt trẻ dưới 6 tháng, trẻ trai và trẻ bụ bẫm thường hay bị nặng do đường thở hẹp tương đối so với trẻ khác.

Dấu hiệu khởi đầu của bệnh giống viêm mũi họng cấp tính, ít khi có sốt cao, nhưng sau 2-3 ngày, trẻ trở nên nặng hơn như thở nhanh, co rút lồng ngực khi thở, thở khò khè, bỏ ăn, kích thích vật vã, khó ngủ và đặc biệt là ho cơn kéo dài gây khó thở và nôn trớ.

Khám phổi có các biểu hiện ứ khí phổi: lồng ngực căng, khoang liên sườn giãn rộng, gõ trong, rì rào phế nang giảm do tắc nghẽn nặng đường thở, đặc biệt là khi thở ra rất khó khăn nên trẻ thường phải cố gắng để đẩy khí ra khỏi phổi làm thì thở ra kéo rất dài, nhiều ran ngáy, ran rít và cả ran ẩm khắp hai bên phổi.

Ho và khò khè có thể kéo dài vài tuần đến vài tháng gây cản trở giấc ngủ, khó ăn, nôn dẫn đến suy dinh dưỡng và nhất là bội nhiễm vi khuẩn tại phổi.

Trẻ cần được nhập viện theo dõi và điều trị. Đặc biệt chú ý không tự ý dùng các thuốc kháng histamin để giảm ho, chống viêm cho bé, vì có thể gây tử vong nhanh chóng. Khi trẻ khó thở, cần cho thở ôxy sớm và đúng cách.

[B]4. Viêm phế quản phổi


Đây là bệnh viêm phổi phổ biến nhất ở trẻ em dưới 3 tuổi. Bệnh do các vi khuẩn phổ biến gây viêm đường hô hấp như phế cầu, hemophylus influenzea, braxella catarhalis, liên cầu và tụ cầu.

Trẻ thường có biểu hiện sốt, sốt cao, dịch tiết mũi họng màu xanh hoặc đục như mủ, thở nhanh, khò khè giống viêm tiểu phế quản, nhưng ít có hiện tượng tắc nghẽn, mà chỉ gây khó thở, nên thưởng hít vào thở ra liên tục, nặng nề.

Nghe phổi có thể có ít ran ngáy ran rít, nhưng chủ yếu là nhiều ran ẩm nhỏ và vừa hạt khắp hai bên phổi. Hình ảnh Xquang phổi thấy nhiều chấm nốt mờ rải rác hai bên phổi, tập trung nhiều ở phía gần tim. Xét nghiệm máu thấy có các biểu hiện viêm cấp tính của cơ thể như: tăng số lượng bạch cầu và tăng tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính, protein C phản ứng cấp (CRP: C reactive protein) tăng cao, pro-calcitonin tăng cao. Trẻ cần được điều trị tại bệnh viện.

Bởi vậy, khi bé có các dấu hiệu nghi vấn về các bệnh như trên, gia đình nên cho bé đến Bệnh viện chuyên khoa khám ngay, tránh để bệnh phát triển nặng hơn, sẽ nguy hiểm đến tính mạng của bé. Đặc biệt, mẹ cần lưu ý không tự ý dùng các thuốc co mạch, kháng viêm và kháng sinh bừa bãi không do thầy thuốc chỉ định, nhằm tránh tử vong cho trẻ và giảm tỷ lệ kháng thuốc của vi khuẩn.
cu bé nhà mình vừa ốm 1 tuần rồi giờ mới đang đỡ, chỉ vì ho
chú ý tới sức khỏe là trên hết

















Toyota Innova 2014 giá bèo Toyota Camry 2014 Toyota Altis 2014