08-19-2014, 09:43 AM
Xét về lý tưởng, sự đổi thay duy nhất mà người dịch có quyền thực hiện là ngôn ngữ, là thứ tiếng mà nguyên bản dùng để biểu đạt những ý nghĩa mà mình muốn mô tả, nhiệm vụ của anh ta chính là dùng một thứ tiếng khác để truyền đạt tuốt những cái gì đã được truyển đạt bằng thứ tiếng kia.
Năm 2004 có mấy cuộc hội nghị về dich thuat tâp hợp những chuyên gia có uy tín trong ngành này, phần lớn đều lấy ba tiêu chuẩn TÍN, ĐẠT, NHà làm căn cứ để bàn thảo, đàm đạo. chừng như phần lớn đều chỉ băn khoăn về chữ NHà - một nỗi băn khoăn mà chúng tôi nghĩ là hoàn toàn chính đáng, vì chữ NHà tuồng như chỉ hiệp với một văn phong khăng khăng, và khó lòng có thể nói rằng “phàm là một bản dịch thì nhất quyết phải có cái văn phong được gọi là “NHÔ. Nếu nguyên bản không “nhã”, nhưng mấp mô tục lệ, thì bản dịch “nhã” vững chắc là sẽ không thực hành được chữ “tín”, và sẽ nảy sinh một mâu thuẫn đối kháng ngay trong nội bộ của tiêu chuẩn được đề ra.
1. thể loại
Một văn bản, dù muốn dù không, cũng phải thuộc một thể loại nhất quyết, và “tính thể loại” chính là cái mà người dịch phải truyền đạt đầu tiên. Tôi đã từng đọc một chồng bản dịch chuyện cổ tích trong đó người dịch truyền đạt những nguyên bản dài từ 2 đến 12 trang thành những thiên tiểu thuyết dài từ 200 đến 500 trang, và rất kiêu hãnh vì đã chuyển được những chuyện cổ tích qua quýt buồn tẻ thành những pho tiểu thuyết ly kỳ hấp dẫn đầy những chi tiết tinh vi và những đoạn hội thoại sắc sảo cho thấy một vốn hiểu biết sâu rộng về tâm lý người đời, mà vẫn giữ được nguyên xi cốt chuyện của nguyên bản. Dịch giả từ biệt tôi với một nỗi vô vọng vô cùng không phải đối với mấy ngàn trang tiểu thuyết của mình, mà đối với sự thấp kém của tôi, người đã không đủ sức hiểu cái giá trị nhẵn của cái công trình mà ông đã bỏ ra bấy nhiêu công sức để thực hiện. Ba mươi năm sau, khi chúng tôi gặp lại, vẫn chưa có một nhà xuất bản nào đủ sáng suốt để ban bố bộ sách của ông. Ai cũng giải đáp ấp úng một câu vô nghĩa: “Hay thì hay tuyệt, nhưng... nó thế nào ấy, không hạp lắm”. Tôi trộm nghĩ: cái không thích hợp ở đây chính là tính loại thể.
2. Chuyển thể
Tôi không hề phản đối việc chuyển thể - như đưa lên sàn diễn (kịch nói, kịch thơ, tuồng, chèo, cải lương) hay màn ảnh, chuyển tiểu thuyết văn xuôi thành trường ca có vần điệu, chuyển truyện ngắn thành ngụ ngôn, chuyển chuyện cổ tích thành vè hay thành vũ kịch v.v., v.v. Có những tác phẩm được chuyển thể thành công, có tác phẩm được chuyển thể không thành công bằng. tất thảy đều lệ thuộc vào thiên tài và công sức của người thực hiện việc chuyển thể. Dù sao thì nhìn chung, qua việc chuyển thể khó lòng tránh khỏi tình trạng mất mát một cái gì đó trong nguyên tác, tuy không phải không có những trường hợp lệ ngoại quý giá, trong đó kết quả của chuyển thể vượt hẳn nguyên tác về giá trị nghệ thuật. Những ví dụ về trường hợp dịch công chứng này, có nhẽ bất kỳ độc giả nào cũng có thể tìm ra một cách dễ dàng. Xin nhắc lại một lần nữa là chúng tôi đang nói đến dịch thuật công chứng hiểu theo nghĩa hẹp, thành thử không dám có tham vọng mở rộng phạm vi thảo luận sang những ngành lân cận.
3. Phóng tác
Rất gần gũi với chuyển thể công việc phóng tác, khi một người cầm bút thấy cần sửa đổi nguyên tác ít nhiều để cho tác phẩm hạp hơn với một đối tương một mực, thường hẹp hơn cái đối tương mà tác giả hướng tới. Thường thường đó là đối tượng thiếu nhi. Làm việc này thường là một người lấy làm tiếc rằng một tác phẩm hay nào đó có phần không thích hợp với một công chúng lẽ ra có thể hiểu và thưởng thức nó nếu có ai căn cứ vào những đặc thù của lớp người mình đang muốn phục vụ mà cải biên lại chút xíu, sao cho nó khớp với công chúng của mình. Nguyện vọng này hoàn toàn chính đáng, có thể thực hành được và hơn nữa cũng rất cấp thiết đối với những người còn phải chờ một sự trưởng thành về trí não mới có thể tiếp cận được một tác phẩm. Cũng xin nói rõ rằng công việc này chỉ có thể làm được với những tác phẩm văn chương mà thôi, chứ đối với những tác phẩm nghệ thuật khác thì không ai nẩy ra cái ý phóng tác một bức tranh, một vở kịch câm hay một vũ kịch để cho nó hợp hơn với bất kỳ đối tượng nào. Vì một lẽ giản đơn: việc đó không thể nào làm được.
Còn như một loại tác phẩm quan yếu đối với mọi dân tộc như những bái hát ru con (thường là trích mượn từ những bài ca dao) thì công chúng chủ yếu của nó lại chính là “những người chưa đủ trưởng thành về trí óc”, nhưng lại không thể phóng tác được, phải hát đúng từng chữ khi ru con, với niềm hy vọng là nó sẽ được ghi lại trong ký ức thành những kỷ niệm không bao giờ phai mờ để sau này nhớ lại, con người trưởng thành sẽ coi nó như một truyền thống vĩnh hằng thiêng nhất, quý báu nhất của dân tộc.
Sau khi đã nói rõ nội dung của những công việc có phần gần gũi với dịch thuật, khi độc giả đã có thể có được một khái niệm tương đối rõ ràng về những ranh giới khu biệt giữa dịch thuật với những công việc ấy, chúng tôi xin miêu tả công việc dịch thuật như một quá trình gồm có mấy công đoạn tách biệt. Đó là một cách diễn tả có tính ước định, chẳng qua để cụ thể hoá những chi tiết nhiều khi khó xác định của cái công việc không lấy gì làm đơn giản này
4. Những công đoạn của việc dịch thuật
Các tác giả của những giáo trình được đem giảng tại các khoa và bộ môn tiếng nói học mà chương trình có bao gồm nội dung dịch thuật thường biểu hiện công việc của ngành khoa học này dưới dạng một quá trình có bốn công đoạn sau đây:
(1) phân tách nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn (Source Language) để “hiểu” thật rõ tác giả “muốn nói” gì.
(2) Xoá cách ngôn từ hoá của nguyên bản (Deverbalisation of the text)
(3) Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình thức của nguyên bản (qua một siêu tiếng nói ước định)
(4) Tái ngôn từ hoá bằng ngôn ngữ đích để có được một văn bản tương đương với nguyên bản (Reverbalisation in the Target Language so that the text obtained would be equivalent to that written in the Source Language).
đương nhiên, cách phân ra thành công đoạn như trên không một mực phải là một quá trình gồm những thời đoạn tuần tự kế tiếp nhau theo trật tự thời kì. Mỗi người dịch có thể làm việc theo một phương thức khác nhau, kê cả những phương thức hoàn toàn mặc ẩn (implicite), thậm chí vô thức (unconscious). Nhưng, cũng như khi nói về quá trình thụ đắc (acquisition) vốn kiến thức của người bản ngữ về tiếng mẹ đẻ của mình, muốn dạy cách thông ngôn không thể có cách gì ngoài cách hiển ngôn hoá (explicitating), tức thị nói ra thành lời một cách thông tõ để người học nhận thức được từng chi tiết, từng giai đoạn của quá trình thụ đắc vốn kiến thức cấp thiết. Ta hãy xét kỹ từng công đoạn trong quá trình làm việc của người phiên dịch có kiến thức hiển ngôn về quá trình này.
Người có kinh nghiệm và kỹ năng dich thuat cong chung sẽ đáp:
- Không ai có thể nhớ hết từ ngữ trong một lời phát biểu ở hội nghị, nếu dịch miệng. Người dịch chỉ nhớ cái nghĩa của lời phát biểu. Người dịch viết có kinh nghiệm cũng biết rằng khi hiểu một câu văn, người dịch phải quên cách diễn tả câu ấy bằng những từ ngữ gì. Sự lãng quên này sẽ càng ngày càng trở thành thiên nhiên, thậm chí tự phát. Trong tâm não người nghe (người đọc), những từ ngữ của nguyên bản tức thời bị quên đi để nhường chỗ cái ý mà tác giả muốn truyền đạt. Có thế người nghe (người đọc) mới hiểu được cái ý ấy.
- Vậy cái ý ấy cụ thể là cái gì, khi đã quên hết cách trình diễn.# nó bằng những từ ngữ vốn làm thành cái bệ đỡ vật chất của nó?
- Cái ý ấy thường được giữ lại trong ý thức của người nghe (hay người đọc) dười dạng những hình ảnh về những gì đã được thuật lại bằng lời. Những hình ảnh này có thể tĩnh (phong thái, dáng vẻ) hay động (động tác hay sự thay đổi phong độ, hình dạng). ngoại giả, những hình ảnh này lại phải được đặt trên bối cảnh của những hình ảnh đã có trong văn cảnh trước đó, rồi lại được giải nghĩa bằng những kiến thức phổ biến (ngoài ngôn ngữ học) của người nghe hay người đọc.
Những người nghe dịch miệng trong hội nghị thường sửng sốt trước cái trí tưởng “kỳ dị” của người thông ngôn chính là vì cứ tưởng anh ta nhớ hết các từ ngữ, trong khi thật ra anh ta chỉ nhớ cái nghĩa, cái ý mà người kia muốn nói ra thôi. Người dịch viết cũng không hề làm khác, nếu anh ta đã đích thực hiểu tác giả muốn nói gì. Ở đây chỉ cần lưu ý một tẹo nữa để thấy cần phân biệt mấy chữ muốn nói gì với những câu hỏi về nguyên cớ (vì sao mà nói thế?) về động cơ (nói thế để làm gì?).
Nói tóm lại, dịch thuật công chứng phi ngôn từ hoá nguyên bản không hề gây trở ngại cho người dịch mà chính là tạo một điều kiện chẳng thể thiếu để họ có thể dùng nội quan (introspection) soi sáng tâm khảm mình để thoát ra ngoài những từ ngữ có thể gây nên những tạp âm (noise - hiểu theo nghĩa của lý thuyết thông tin) có hại cho hoạt động “hiểu” (comprehension) của tâm trí nếu người nghe không quên ngay đi để chỉ hội tụ vào việc hiểu cho đúng tác giả muốn nói gì, muốn mình hình dong được những hình ảnh nào.
(3) Công việc tìm hiểu cái nghĩa, cái ý mà tác giả muốn nói sẽ được nhận thức một cách minh xác hơn nữa khi ta Phân tích một cách hiển ngôn, bằng siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ học và của ngữ dụng học (nhất là trong những hành động ngôn từ (speech acts) của tác giả và của các nhân vật, trong đó có những câu được gọi là câu ngôn hành - performative sentences)
Năm 2004 có mấy cuộc hội nghị về dich thuat tâp hợp những chuyên gia có uy tín trong ngành này, phần lớn đều lấy ba tiêu chuẩn TÍN, ĐẠT, NHà làm căn cứ để bàn thảo, đàm đạo. chừng như phần lớn đều chỉ băn khoăn về chữ NHà - một nỗi băn khoăn mà chúng tôi nghĩ là hoàn toàn chính đáng, vì chữ NHà tuồng như chỉ hiệp với một văn phong khăng khăng, và khó lòng có thể nói rằng “phàm là một bản dịch thì nhất quyết phải có cái văn phong được gọi là “NHÔ. Nếu nguyên bản không “nhã”, nhưng mấp mô tục lệ, thì bản dịch “nhã” vững chắc là sẽ không thực hành được chữ “tín”, và sẽ nảy sinh một mâu thuẫn đối kháng ngay trong nội bộ của tiêu chuẩn được đề ra.
1. thể loại
Một văn bản, dù muốn dù không, cũng phải thuộc một thể loại nhất quyết, và “tính thể loại” chính là cái mà người dịch phải truyền đạt đầu tiên. Tôi đã từng đọc một chồng bản dịch chuyện cổ tích trong đó người dịch truyền đạt những nguyên bản dài từ 2 đến 12 trang thành những thiên tiểu thuyết dài từ 200 đến 500 trang, và rất kiêu hãnh vì đã chuyển được những chuyện cổ tích qua quýt buồn tẻ thành những pho tiểu thuyết ly kỳ hấp dẫn đầy những chi tiết tinh vi và những đoạn hội thoại sắc sảo cho thấy một vốn hiểu biết sâu rộng về tâm lý người đời, mà vẫn giữ được nguyên xi cốt chuyện của nguyên bản. Dịch giả từ biệt tôi với một nỗi vô vọng vô cùng không phải đối với mấy ngàn trang tiểu thuyết của mình, mà đối với sự thấp kém của tôi, người đã không đủ sức hiểu cái giá trị nhẵn của cái công trình mà ông đã bỏ ra bấy nhiêu công sức để thực hiện. Ba mươi năm sau, khi chúng tôi gặp lại, vẫn chưa có một nhà xuất bản nào đủ sáng suốt để ban bố bộ sách của ông. Ai cũng giải đáp ấp úng một câu vô nghĩa: “Hay thì hay tuyệt, nhưng... nó thế nào ấy, không hạp lắm”. Tôi trộm nghĩ: cái không thích hợp ở đây chính là tính loại thể.
2. Chuyển thể
Tôi không hề phản đối việc chuyển thể - như đưa lên sàn diễn (kịch nói, kịch thơ, tuồng, chèo, cải lương) hay màn ảnh, chuyển tiểu thuyết văn xuôi thành trường ca có vần điệu, chuyển truyện ngắn thành ngụ ngôn, chuyển chuyện cổ tích thành vè hay thành vũ kịch v.v., v.v. Có những tác phẩm được chuyển thể thành công, có tác phẩm được chuyển thể không thành công bằng. tất thảy đều lệ thuộc vào thiên tài và công sức của người thực hiện việc chuyển thể. Dù sao thì nhìn chung, qua việc chuyển thể khó lòng tránh khỏi tình trạng mất mát một cái gì đó trong nguyên tác, tuy không phải không có những trường hợp lệ ngoại quý giá, trong đó kết quả của chuyển thể vượt hẳn nguyên tác về giá trị nghệ thuật. Những ví dụ về trường hợp dịch công chứng này, có nhẽ bất kỳ độc giả nào cũng có thể tìm ra một cách dễ dàng. Xin nhắc lại một lần nữa là chúng tôi đang nói đến dịch thuật công chứng hiểu theo nghĩa hẹp, thành thử không dám có tham vọng mở rộng phạm vi thảo luận sang những ngành lân cận.
3. Phóng tác
Rất gần gũi với chuyển thể công việc phóng tác, khi một người cầm bút thấy cần sửa đổi nguyên tác ít nhiều để cho tác phẩm hạp hơn với một đối tương một mực, thường hẹp hơn cái đối tương mà tác giả hướng tới. Thường thường đó là đối tượng thiếu nhi. Làm việc này thường là một người lấy làm tiếc rằng một tác phẩm hay nào đó có phần không thích hợp với một công chúng lẽ ra có thể hiểu và thưởng thức nó nếu có ai căn cứ vào những đặc thù của lớp người mình đang muốn phục vụ mà cải biên lại chút xíu, sao cho nó khớp với công chúng của mình. Nguyện vọng này hoàn toàn chính đáng, có thể thực hành được và hơn nữa cũng rất cấp thiết đối với những người còn phải chờ một sự trưởng thành về trí não mới có thể tiếp cận được một tác phẩm. Cũng xin nói rõ rằng công việc này chỉ có thể làm được với những tác phẩm văn chương mà thôi, chứ đối với những tác phẩm nghệ thuật khác thì không ai nẩy ra cái ý phóng tác một bức tranh, một vở kịch câm hay một vũ kịch để cho nó hợp hơn với bất kỳ đối tượng nào. Vì một lẽ giản đơn: việc đó không thể nào làm được.
Còn như một loại tác phẩm quan yếu đối với mọi dân tộc như những bái hát ru con (thường là trích mượn từ những bài ca dao) thì công chúng chủ yếu của nó lại chính là “những người chưa đủ trưởng thành về trí óc”, nhưng lại không thể phóng tác được, phải hát đúng từng chữ khi ru con, với niềm hy vọng là nó sẽ được ghi lại trong ký ức thành những kỷ niệm không bao giờ phai mờ để sau này nhớ lại, con người trưởng thành sẽ coi nó như một truyền thống vĩnh hằng thiêng nhất, quý báu nhất của dân tộc.
Sau khi đã nói rõ nội dung của những công việc có phần gần gũi với dịch thuật, khi độc giả đã có thể có được một khái niệm tương đối rõ ràng về những ranh giới khu biệt giữa dịch thuật với những công việc ấy, chúng tôi xin miêu tả công việc dịch thuật như một quá trình gồm có mấy công đoạn tách biệt. Đó là một cách diễn tả có tính ước định, chẳng qua để cụ thể hoá những chi tiết nhiều khi khó xác định của cái công việc không lấy gì làm đơn giản này
4. Những công đoạn của việc dịch thuật
Các tác giả của những giáo trình được đem giảng tại các khoa và bộ môn tiếng nói học mà chương trình có bao gồm nội dung dịch thuật thường biểu hiện công việc của ngành khoa học này dưới dạng một quá trình có bốn công đoạn sau đây:
(1) phân tách nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn (Source Language) để “hiểu” thật rõ tác giả “muốn nói” gì.
(2) Xoá cách ngôn từ hoá của nguyên bản (Deverbalisation of the text)
(3) Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình thức của nguyên bản (qua một siêu tiếng nói ước định)
(4) Tái ngôn từ hoá bằng ngôn ngữ đích để có được một văn bản tương đương với nguyên bản (Reverbalisation in the Target Language so that the text obtained would be equivalent to that written in the Source Language).
đương nhiên, cách phân ra thành công đoạn như trên không một mực phải là một quá trình gồm những thời đoạn tuần tự kế tiếp nhau theo trật tự thời kì. Mỗi người dịch có thể làm việc theo một phương thức khác nhau, kê cả những phương thức hoàn toàn mặc ẩn (implicite), thậm chí vô thức (unconscious). Nhưng, cũng như khi nói về quá trình thụ đắc (acquisition) vốn kiến thức của người bản ngữ về tiếng mẹ đẻ của mình, muốn dạy cách thông ngôn không thể có cách gì ngoài cách hiển ngôn hoá (explicitating), tức thị nói ra thành lời một cách thông tõ để người học nhận thức được từng chi tiết, từng giai đoạn của quá trình thụ đắc vốn kiến thức cấp thiết. Ta hãy xét kỹ từng công đoạn trong quá trình làm việc của người phiên dịch có kiến thức hiển ngôn về quá trình này.
Người có kinh nghiệm và kỹ năng dich thuat cong chung sẽ đáp:
- Không ai có thể nhớ hết từ ngữ trong một lời phát biểu ở hội nghị, nếu dịch miệng. Người dịch chỉ nhớ cái nghĩa của lời phát biểu. Người dịch viết có kinh nghiệm cũng biết rằng khi hiểu một câu văn, người dịch phải quên cách diễn tả câu ấy bằng những từ ngữ gì. Sự lãng quên này sẽ càng ngày càng trở thành thiên nhiên, thậm chí tự phát. Trong tâm não người nghe (người đọc), những từ ngữ của nguyên bản tức thời bị quên đi để nhường chỗ cái ý mà tác giả muốn truyền đạt. Có thế người nghe (người đọc) mới hiểu được cái ý ấy.
- Vậy cái ý ấy cụ thể là cái gì, khi đã quên hết cách trình diễn.# nó bằng những từ ngữ vốn làm thành cái bệ đỡ vật chất của nó?
- Cái ý ấy thường được giữ lại trong ý thức của người nghe (hay người đọc) dười dạng những hình ảnh về những gì đã được thuật lại bằng lời. Những hình ảnh này có thể tĩnh (phong thái, dáng vẻ) hay động (động tác hay sự thay đổi phong độ, hình dạng). ngoại giả, những hình ảnh này lại phải được đặt trên bối cảnh của những hình ảnh đã có trong văn cảnh trước đó, rồi lại được giải nghĩa bằng những kiến thức phổ biến (ngoài ngôn ngữ học) của người nghe hay người đọc.
Những người nghe dịch miệng trong hội nghị thường sửng sốt trước cái trí tưởng “kỳ dị” của người thông ngôn chính là vì cứ tưởng anh ta nhớ hết các từ ngữ, trong khi thật ra anh ta chỉ nhớ cái nghĩa, cái ý mà người kia muốn nói ra thôi. Người dịch viết cũng không hề làm khác, nếu anh ta đã đích thực hiểu tác giả muốn nói gì. Ở đây chỉ cần lưu ý một tẹo nữa để thấy cần phân biệt mấy chữ muốn nói gì với những câu hỏi về nguyên cớ (vì sao mà nói thế?) về động cơ (nói thế để làm gì?).
Nói tóm lại, dịch thuật công chứng phi ngôn từ hoá nguyên bản không hề gây trở ngại cho người dịch mà chính là tạo một điều kiện chẳng thể thiếu để họ có thể dùng nội quan (introspection) soi sáng tâm khảm mình để thoát ra ngoài những từ ngữ có thể gây nên những tạp âm (noise - hiểu theo nghĩa của lý thuyết thông tin) có hại cho hoạt động “hiểu” (comprehension) của tâm trí nếu người nghe không quên ngay đi để chỉ hội tụ vào việc hiểu cho đúng tác giả muốn nói gì, muốn mình hình dong được những hình ảnh nào.
(3) Công việc tìm hiểu cái nghĩa, cái ý mà tác giả muốn nói sẽ được nhận thức một cách minh xác hơn nữa khi ta Phân tích một cách hiển ngôn, bằng siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ học và của ngữ dụng học (nhất là trong những hành động ngôn từ (speech acts) của tác giả và của các nhân vật, trong đó có những câu được gọi là câu ngôn hành - performative sentences)