09-19-2014, 08:58 AM
Giao ước toàn năng
“Đạo có thể gọi được, không phải là đạo “thường”
Danh có thể gọi được, không phải là danh “thường”
Không tên là gốc của Trời Đất
Có tên là mẹ của vạn vật.
Bởi vậy, thường không tư dục, mới nhận được chỗ huyền diệu của Đạo
Thường bị tư dục nên chỉ thấy chỗ chia lìa của Đạo.
Hai cái đó, đồng với nhau; cùng một gốc tên khác
Đồng, nên gọi Huyền,
Huyền rồi lại Huyền,
Đó là cửa vào ra của mọi huyền diệu trong trời đất.”
“Đạo có thể gọi được, không phải là đạo “thường”
Danh có thể gọi được, không phải là danh “thường”
Không tên là gốc của Trời Đất
Có tên là mẹ của vạn vật.
Bởi vậy, thường không tư dục, mới nhận được chỗ huyền diệu của Đạo
Thường bị tư dục nên chỉ thấy chỗ chia lìa của Đạo.
Hai cái đó, đồng với nhau; cùng một gốc tên khác
Đồng, nên gọi Huyền,
Huyền rồi lại Huyền,
Đó là cửa vào ra của mọi huyền diệu trong trời đất.”
(Lão Tử - Đạo Đức Kinh)
Khởi nguyên
Theo Sáng Thế Ký, thuở ban đầu, đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, trời là một khối nước khổng lồ. Đức Chúa Trời đã dùng lời của Người để tạo dựng nên vạn vật.
Ngày thứ nhất, Đức Chúa Trời tạo dựng ánh sáng, Người gọi ánh sáng là “ngày” và bóng tối là “đêm”
Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng. (St 1,3)
Ngày thứ hai, Đức Chúa Trời tạo dựng “trời” – một cái vòm để phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên vòm.
Thiên Chúa phán: “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.” Liền có như vậy. (St 1,6)
Ngày thứ ba, Đức Chúa Trời tạo dựng “đất” và “biển”.
Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất”, khối nước tụ lại là “biển”. (St 1, 11)
Ngày thứ tư, Đức Chúa Trời tạo ra các ngôi sao và các vầng sáng để điều khiển ngày và đêm.
Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Ðó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như vậy. (St 1, 14)
Ngày thứ năm, Đức Chúa Trời tạo ra các sinh vật dưới nước, trên trời và dưới mặt đất.
Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” (St 1, 20)
Thiên Chúa phán: “Ðất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy. (St 1, 24)
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời,
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
Và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu,
Người vẫn hướng về Thiên Chúa
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
Và không có Người,
Thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
Và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu soi bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.”
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
Và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu,
Người vẫn hướng về Thiên Chúa
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
Và không có Người,
Thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
Và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu soi bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.”
(Gio – an 1, 1 – 3)
Con người
Ngày thứ 6, Đức Chúa Trời dựng nên loài người. Vì tình yêu vô điều kiện với con người, Đức Chúa Trời đã ban cho con người một tặng ân vô cùng cao quý: ý chí tự do và sự tự do lựa chọn.
“Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.”(St, 1, 26 – 27)
“Đạo sinh đó,
Đức nuôi đó,
Chủng loại tạo hình đó,
Hoàn cảnh liên kết đó,
Vậy nên muôn vật đâu phải tôn Đạo quí Đức
Tôn Đạo quí Đức là một phận sự bắt buộc mà là chiều hướng tự nhiên
Thế nên, Đạo sinh đó, Đức nuôi đó,
Cấp dưỡng đó, nuôi nấng đó,
Đùm bọc đó, bồi sức đó,
Dưỡng nuôi đó, che chở đó,
Sinh mà không chiếm làm của mình,
Làm mà không cậy công,
Là bậc trên, mà không là chủ,
Đó gọi là Huyền Đức.
Đức nuôi đó,
Chủng loại tạo hình đó,
Hoàn cảnh liên kết đó,
Vậy nên muôn vật đâu phải tôn Đạo quí Đức
Tôn Đạo quí Đức là một phận sự bắt buộc mà là chiều hướng tự nhiên
Thế nên, Đạo sinh đó, Đức nuôi đó,
Cấp dưỡng đó, nuôi nấng đó,
Đùm bọc đó, bồi sức đó,
Dưỡng nuôi đó, che chở đó,
Sinh mà không chiếm làm của mình,
Làm mà không cậy công,
Là bậc trên, mà không là chủ,
Đó gọi là Huyền Đức.
(Lão Tử - Đạo Đức Kinh)
Trước khi tạo ra con người, Đức Chúa Trời đã tạo dựng các thiên thần, và cũng vì tình yêu vô điều kiện với họ, Người cũng đã ban cho họ tặng ân là ý chí tự do. Trong số các thiên thần, thì thiên thần Luxiphe là thiên thần khôn ngoan nhất. Do ghen tương với tình yêu mà Đức Chúa Trời dành cho con người, hắn đã quyết định quyến rũ con người phạm tội để chống lại Đấng Tạo Hóa của mình thông qua tội kiêu ngạo. Hắn đã cám dỗ Adam và Eva và điều này có nghĩa là bằng chính ý chí tự do của họ, họ đã về phe với tên ác quỷ, chối bỏ Quyền Năng của Đức Chúa Trời và nghĩ rằng, cũng như Luxiphe, họ có thể đạt được Quyền Năng và giành được một phần Thiên Tính của Đức Chúa Trời.
“Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rô – ma 5, 12)
Giao ước toàn năng
Thiên thần Luxiphe cùng bè lũ phản nghịch của y đã bị kết án trong hỏa ngục đời đời. Tuy nhiên, vì tình yêu dành cho con người, Đức Chúa Trời muốn giải thoát con người khỏi tên ác quỷ, thần chết Luxiphe và khỏi hình phạt của hỏa ngục. Để không chạm đến tặng ân vô giá là ý chí tự do đã ban cho con người, Đức Chúa Trời đã lập ra một giao ước toàn năng nhằm khôi phục lại đức tin của con người.
Đức Chúa Trời đã sai đến các ngôn sứ khuyên răn loài người đi về đường công chính, từ bỏ tội lỗi, tránh xa sự cám dỗ của tên ác quỷ. Người đã ban cho con người 10 điều răn thông qua ngôn sứ Mô-sê:
Điều 1: Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
Điều 2: Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông.còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.
Điều 3: Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
Điều 4: Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh.
Điều 5: Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
Điều 6: Ngươi không được giết người.
Điều 7: Ngươi không được ngoại tình.
Điều 8: Ngươi không được trộm cắp.
Điều 9: Ngươi không được làm chứng gian hại người.
Điều 10: Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.
Tuy nhiên, con người vẫn kiêu căng và ngạo mạn. Họ đã chiều theo tên ác quỷ phá vỡ từng điều răn một: họ thờ cúng thụ tạo là loài phải chết thay vì Đấng Tạo Hóa chân thật, họ dùng danh Người một cách bất xứng, họ bất kính với cha mẹ, giết người, ngoại tình, làm chứng gian, trộm cắp. Họ đã lợi dụng ý chí tự do của mình tạo ra chân lý của riêng mình, thay vì đón nhận chân lý chân thật, phán xét thiện ác đúng sai một cách bừa bãi.
“Đạo Trời ư? Khác nào cây cung giương lên:
Chỗ cao thì ép xuống,
Chỗ thấp thì nâng lên.
Có dư thì bớt đi.
Không đủ thì bù vào.
Đạo của Trời:
Bớt chỗ dư bù chỗ thiếu
Đạo của Người thì không vậy:
Bớt chỗ thiếu bù chỗ dư.
Ai đâu có dư để bù cho thiên hạ
Nếu không phải kẻ đã được Đạo!”
Chỗ cao thì ép xuống,
Chỗ thấp thì nâng lên.
Có dư thì bớt đi.
Không đủ thì bù vào.
Đạo của Trời:
Bớt chỗ dư bù chỗ thiếu
Đạo của Người thì không vậy:
Bớt chỗ thiếu bù chỗ dư.
Ai đâu có dư để bù cho thiên hạ
Nếu không phải kẻ đã được Đạo!”
(Lão Tử - Đạo Đức Kinh)
Nhưng vì yêu thương con người, Ngôi Lời, Chúa Jesus đã mặc lấy xác phàm để cứu con người khỏi lửa hỏa ngục. Người đã giảng dạy mọi người tìm về nẻo công chính, sửa đổi lối sống để quay về với Đức Chúa Trời. Dù Người là Thiên Chúa nhưng Người đã sống theo đúng 10 điều luật trên. Tuy nhiên Người đã bị kết án là dị giáo và bị đóng đinh trên thập tự giá với bản án là dám xưng là con của Đức Chúa Trời (Son of God). Dù vậy, sự phục sinh sau cái chết của chúa Jesus đã thể hiện lòng nhân từ của Đức Chúa Trời. Người đã tha thứ tội lỗi của con người, và bất kì ai tin vào danh Chúa Jesus thì sẽ được quyền trở nên con cái Thiên Chúa.
“Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính."
(Rô – ma, 5, 18 – 19)
Thời cánh chung
Nhưng con người vẫn vậy, luôn kiêu căng và ngạo mạn. Họ gần như gạt bỏ những ân sủng mà Đức Chúa Trời ban cho để đi vào con đường tội lỗi dẫn đến cửa Hỏa Ngục đời đời. Thế giới này là thế giới bị thống trị bởi tên ác quỷ, bởi sự dối trá và vô đạo đức.
Nếu ta hiểu biết kha khá,
Ta đi theo đường Đạo lớn.
Chỉ sợ làm sai mà thôi!
Đạo Lớn thì rộng và trơn tru,
Dân lại thích đường hẹp và quanh co.
Triều đình lộng lẫy thật,
Mà ruộng nương đầy cỏ hoang,
Còn kho đụn thì trống trơn,
Áo quần sang trọng thật,
Đeo kiếm bén,
Ăn uống chán,
Của cải thừa …
Nhưng đó là đường của đạo tặc
Đâu phải đường của Đại Đạo.
Ta đi theo đường Đạo lớn.
Chỉ sợ làm sai mà thôi!
Đạo Lớn thì rộng và trơn tru,
Dân lại thích đường hẹp và quanh co.
Triều đình lộng lẫy thật,
Mà ruộng nương đầy cỏ hoang,
Còn kho đụn thì trống trơn,
Áo quần sang trọng thật,
Đeo kiếm bén,
Ăn uống chán,
Của cải thừa …
Nhưng đó là đường của đạo tặc
Đâu phải đường của Đại Đạo.
(Lão Tử - Đạo Đức Kinh)
Chúa Jesus đã tiên báo một ngày Người sẽ đến một lần nữa để giải thoát con người khỏi tên ác quỷ, Satan, thiên thần sa ngã Luxiphe, hay gọi là cuộc ngự đến lần 2. Ngày đó, những người sống công chính sẽ được cứu thoát khỏi nanh vuốt của tên ác quỷ, còn những kẻ gian ác sẽ bị ném vào lửa Hỏa Ngục đời đời cùng với hắn. Người đưa ra một dấu chỉ về thời cuối cùng như sau:
“Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: Chính Ta đây là Đấng Ki-tô, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Anh em sẽ nghe có giặc giá và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận cùng. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn.
Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bây giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được làm loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng.”
(Mát-thêu 24, 4 – 14 )
Và trong cuộc Phán Xét Chung, Chúa Jesus sẽ xét xử nhân loại, Người sẽ tách biệt chiên với dê, người công chính và kẻ tội lỗi:
“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”. Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”. Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”. Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời”.
(Mát – thêu 25, 31 – 46)
“Dứt học không lo,
“Dạ” với “Ơi”
Khác nhau chỗ nào
Lành với dữ,
Khác nhau ở đâu?
Chỗ mà người sợ,
Ta há chẳng sợ,
Nhưng chưa có chi, sợ cũng vô ích
Người đời vui vẻ,
Như hưởng thái lao,
Như lên xuân đài
Riêng ta im lặng, chẳng dâu vết chi,
Như trẻ sơ sinh, chưa biết tươi cười.
Rũ rượi mà đi, đi không chỗ về.
Người đời có dư,
Riêng ta thiếu thốn
Lòng ta ngu dốt vậy thay!
Mờ mệt chừ!
Người đời sáng chói
Riêng ta mịt mờ
Người đời phân biện,
Riêng ta hỗn độn.
Điềm tĩnh dường như tối tăm,
Vùn vụt dường như không lặng.
Người đời đều có chỗ dùng,
Riêng ta ngu dốt, thô lậu.
Ta riêng khác người đời;
Ta quí Mẹ nuôi muôn loài.
“Dạ” với “Ơi”
Khác nhau chỗ nào
Lành với dữ,
Khác nhau ở đâu?
Chỗ mà người sợ,
Ta há chẳng sợ,
Nhưng chưa có chi, sợ cũng vô ích
Người đời vui vẻ,
Như hưởng thái lao,
Như lên xuân đài
Riêng ta im lặng, chẳng dâu vết chi,
Như trẻ sơ sinh, chưa biết tươi cười.
Rũ rượi mà đi, đi không chỗ về.
Người đời có dư,
Riêng ta thiếu thốn
Lòng ta ngu dốt vậy thay!
Mờ mệt chừ!
Người đời sáng chói
Riêng ta mịt mờ
Người đời phân biện,
Riêng ta hỗn độn.
Điềm tĩnh dường như tối tăm,
Vùn vụt dường như không lặng.
Người đời đều có chỗ dùng,
Riêng ta ngu dốt, thô lậu.
Ta riêng khác người đời;
Ta quí Mẹ nuôi muôn loài.
(Lão Tử - Đạo Đức Kinh)