Chữa trị nội khoa cho người bị mắc bệnh van tim
linhnham05 > 03-21-2016, 07:54 AM
Với các bệnh nhân hội chứng về van tim, trị nội khoa dễ được chỉ định trong những trường hợp nhẹ và vừa, chưa có hiện trạng suy tim hoặc một số triệu chứng trở nặng. Thực tế cũng cho thấy rằng, trường hợp không cấp bách cần phẫu thuật ngay, trị liệu nội khoa là một phương pháp tích cực.
Trị liệu nội khoa là một liệu pháp trị tim mạch máu tích cực và cần thiết do 2 lý vì sau:
– thứ 1, có toàn bộ trường hợp người bị mắc bệnh là người lớn tuổi với chứng bệnh van tim thoái hoá có biểu hiện mà không thể can thiệp ngoại khoa vì nguy cơ trong lúc mổ. khi này, điều trị nội khoa là chọn lựa thiết thực nhất.
– Thứ hai, có một viễn cảnh thực tế là chữa trị nội khoa làm thay đổi tiến triển tự nhiên của một số hội chứng van tim, cho buộc phải có thể trì hoãn hoặc giảm thiểu can thiệp ngoại khoa.
Rối loạn chức năng tâm thu thất trái có ảnh hưởng bởi bệnh lý thiếu máu cơ tim là vấn đề cơ bản của toàn bộ người bệnh tham gia trong thử nghiệm trị nội khoa (thuốc ức chế men chuyển, kháng thụ thể angiotensin, thuốc giãn mạch máu, chẹn, lợi tiểu giữ kali) cho bệnh suy tim. chính vì vậy, một số thử nghiệm này bao gồm vài người mắc bệnh bị hội chứng van tim và những nguyên tắc đã được học dễ được áp dụng rộng rãi.
Ðiều điều trị nội khoa có khả năng khiến chuyển đổi chứng bệnh sử ngẫu nhiên của căn bệnh van tim bằng hai cách:
– trước tiên, diều chữa nội khoa làm cho chậm tiến triển hội chứng van tim , ví dụ: khiến chậm xơ hoá, sẹo hoá và canxi hóa bằng biện pháp dùng kháng viêm trong một vài thể của hội chứng van tim thoái hóa và hậu thấp.
– Thứ hai, trị liệu nội khoa có khả năng tránh ngừa và cải thiện hậu quả tai hại của căn bệnh cơ tim thứ phát. ví dụ, trị liệu thuốc giãn mạch có thể giúp bảo vệ cơ tim của vài người bị mắc bệnh quá tải không gian thất trái vì hở van hai lá hoặc hở van động mạch chủ mạn tính.
Sinh lý hội chứng
Hẹp van động mạch máu chủ vôi hóa có thể có ảnh hưởng ra bởi tiến trình vôi hóa của van ba lá, sẽ ở lứa tuổi 40 – 50.
bệnh lý tiến triển rất hay liên quan xơ vữa động mạch và có thể mắc điều chỉnh bởi sức ép cơ học (hao mòn dần), lắng đọng lipid, và sự viêm nhiễm; chứng bệnh động mạch vành cần thiết có ở 50% người bị mắc bệnh với hẹp động mạch chủ đóng vôi và cả hai hội chứng trên có thể tìm thấy rất nhiều khía cạnh nguy cơ giống nhau với mức độ tương tự.
hội chứng van động mạch chủ hậu thấp thuờng làm ra tổn thương hẹp – hở phối hợp và sẽ kết hợp với bệnh van hai lá.
Hẹp động mạch chủ tăng trưởng chậm và khi đầu cung lượng tim duy trì ở mức chênh áp ngang van động mạch chủ tăng vừa buộc phải. những khi thất trái phì đại dần và máu qua động mạch máu vành ko đủ; người mắc bệnh có thể có nhức ngực ngay cả ngẫu nhiên có bệnh mạch vành kết hợp.
Sự tắc nghẽn dòng ra cố định giới hạn sự tăng cung lượng tim những khi vận động và triệu chứng tụt huyết áp và ngất có khả năng xuất hiện trong khi gắng sức. Hậu quả là thất trái không thể vượt qua hiện tượng tắc nghẽn đường ra thất trái, và suy thất trái xảy ra sau ấy.
người bệnh hẹp chủ điển hình ko có tình trạng trong nhiều năm, trong khi biểu hiện xuất hiện thì bệnh nhanh chóng diễn tiến vô cùng xấu; cho phải tử vong dễ xảy ra trong vòng 3-5 năm sau đấy có hiện tượng.
Kiểm soát triệu chứng
Hẹp động mạch máu chủ có tình trạng là một biểu hiện ngoại khoa và trở thành lý do chung nhất cho việc thay van ở các nước phát triển. bởi vậy, ở bệnh nhân già yếu ko thích hợp cho việc phẫu thuật thì hẹp động mạch chủ có biểu hiện là nhân tố có ảnh hưởng nhức ngực và suy tim, và việc chữa trị nội khoa cho một vài bệnh nhân này là cách chữa duy nhất để làm cho suy giảm hiện trạng.
sử dụng thận trọng thuốc chẹn và nitrate có thể kiểm soát được nhức ngực, nhưng nitrate có thể làm tụt huyết áp có triệu chứng, đặc thù là sử dụng sau đấy gắng sức. Thuốc lợi tiểu có khả năng khiến suy giảm tình trạng sung huyết phổi, nhưng cũng phải nhớ rằng với vài người bị bệnh hẹp động mạch chủ nặng thì phụ thuộc vào áp lực đổ đầy thất và việc dùng lợi tiểu qúa mức có thể có ảnh hưởng nguy hại.
Digoxin có lợi đối với người bị bệnh rung nhĩ hoặc suy chức năng tâm thu thất trái. Rung nhĩ dễ dung nạp kém và trong tình huống này bắt buộc phấn đấu điều chỉnh nhịp xoang từ sốc điện chuyễn nhịp, hoặc thuốc tránh loạn nhịp amiodarone.
toàn bộ vài bác sỹ hạn chế sử dụng ức chế men chuyển trên một vài người bệnh hẹp động mạch máu chủ và suy tim bởi do một số thuốc này ko làm giảm hậu tải thất trái và nguy hại là có khả năng làm tụt huyết áp.
Nhưng một vài nghiên cứu lâm sàng nhỏ đánh giá chữa ngắn hạn của một vài thuốc giãn mạch đã loại bỏ những mối nghi ngờ trên. ví dụ như, hai nghiên cứu lâm sàng nhỏ mô tả hiệu quả tức thì của captopril trong hẹp động mạch chủ nặng (độ chênh áp trung bình qua van ĐMC là 78 và 93 mmHg) ko những ko khiến tụt huyết áp mà còn khiến cho tăng cung lượng tim trung bình rõ ràng và áp lực mô mạch máu phổi bít suy giảm một giải pháp đáng kể trên hầu hết người bị bệnh.
Trong một số nghiên cứu này, cung lượng tim trung bình tăng 41% trong một số người bị mắc bệnh có suy tim thực sự. Hơn nữa người bị mắc bệnh có đáp ứng huyết động học rất tốt bằng việc chữa lâu ngày.
bắt buộc một số nghiên cứu sâu hơn để chứng minh nhưng một điều rõ ràng là vài người mắc bệnh suy tim có hẹp động mạch chủ có khả năng có hiệu quả bằng việc dùng ức chế men chuyển và một số thuốc này đang được chỉ ra một phương pháp thận trọng trong căn bệnh viện.
Tránh ngừa thứ phát
Trong hẹp động mạch máu chủ, nghiên cứu về tiến triển trùng hợp đã cho thấy không gian van suy giảm hằng năm là 0.1cm2, với sự tăng vận tốc trung bình dòng phụt qua siêu âm màu là 0.3 m/s/năm (tương đương với độ chênh áp tăng 7mmHg/năm). nhưng mà, điều này chuyển đổi đáng nói và có xu thế nhiều hơn ở người già, ở những người có vôi hóa van ÐMC, có tăng lipid máu.
Một nghiên cứu ở 170 người bị bệnh với nồng độ cholesterol trong máu cao hơn 5.2mmol/l (200mg/dl) thì giảm thể tích van ÐMC gấp đôi. Hơn nữa, một nghiên cứu hồi cứu có chủ đích vừa rồi cho thấy việc sử dụng chất ức chế men HMG CoA(statin) liên quan đáng nói đến giảm tỉ lệ hẹp van ÐMC ( trung bình (SD) 0.06(0.16 ) cm2 so với 0.11 (0.11) cm2/năm).
các nghiên cứu này có ngụ ý rõ ràng cho việc chống ngừa thứ phát trong một số người mắc bệnh hẹp ÐMC vôi hóa, và vài thử nghiệm đối chứng khi không đã hình thành giả thuyết rằng chữa trị làm suy giảm lipid máu bằng ức chế men HMG CoA thường khiến cho chậm công đoạn tiến triển của hội chứng. một vài thử nghiệm điều trị từ aspirin và thuốc hạ áp cũng đã được chứng minh là có lợi.