[SIZE=2]Đây là nơi hội tụ những fans của AJ Styles, một trong những Roster hàng đầu của TNA hiện nay ![/SIZE]
Profile
A.J. Styles
-Tên thi đấu : Mr. Olympia , Air Styles , A.J. Styles
-Chiều cao quảng cáo : 5 ft. 10 in. (178 cm)
-Cân nặng quảng cáo : 215 lb. (97 kg)
-Sinh ngày 2 tháng 6, 1978 (tuổi 31) tại Camp Lejeune , North Carolina
-Quê quán quảng cáo : Gainesville , Georgia
-Huấn luyện bởi : Rick Michaels , NCW Wrestling School
-Debut năm : 1998
Allen Jones (sinh ngày 2 tháng 6, 1978) , được biết đến với tên thi đấu A.J. Styles (cũng được viết là AJ Styles), là 1 đấu vĩ đấu vật chuyên nghiệp hiện đang làm việc cho Total Nonstop Action Wrestling (TNA) , anh đang giữ đai TNA Legends Champion . Anh và Jeff Jarrett là đấu sĩ duy nhất còn thấy diễn ở các pay-per-view NWA-TNA ngày 19 tháng 6, 2002, và vẫn còn ở công ty trong vai đấu sĩ . Kể từ khi gia nhập TNA , Styles đã là TNA X Division Champion đầu tiên và nhiều lần nhất ( 6 lần ) , 5 lần World Tag Team Champion (4 NWA và 1 TNA) và 3 lần NWA World Heavyweight Champion . Khi từng giữ đai TNA X Division , NWA World Tag Team và NWA World Heavyweight Champion , Styles là ng` đầu tiên tham dự tranh TNA Triple Crown Champion . Styles còn tham gia vào Triple Crown 2 lần nữa , làm anh là ng` duy nhất có 3 lần times . Anh cũng là ng` duy nhất thi đấu từ rất lâu ở TNA , từ tham gia vào Triple Crown nhiều hơn 1 lần . Chiến thắng của anh trước Booker T giành được đai TNA Legends Champion làm anh trở thành ng` đầu tiên và duy nhất trong lịch sử TNA giành được TNA Grand Slam Champion .
Lúc đầu
Allen Jones học ở Anderson College ở Anderson , South Carolina , đó là 1 trường có học bổng đấu vật . Trong lúc học ở đây , anh tham gia vào 1998 NAIA National Tournament tại Las Vegas, Nevada trước khi bỏ học Anderson College để tập trung phát triển sự nghiệp đấu vật chuyên nghiệp .
Trong những năm đầu sự nghiệp , Jones được phân làm việc vào cuối tuần để tăng thu nhập , kể cả đưa nước và lái xe cứu thương .
Sự nghiệp đấu vật chuyên nghiệp
NWA Wildside (1999–2001)
Allen Jones được huấn luyện bởi Rick Michaels (Raymond Rawls) và bắt đầu thi đấu năm 1998 . ở công ty National Championship Wrestling tại Georgia , anh đấu với tên Olaf , the Russian Bricklayer , thua cho Michael Brooks trong trận đầu . Tháng 8 năm 1999 , anh thắng được đai Television Champion . Tháng 12 năm 1999 , NCW hợp với NWA Georgia để lập ra NWA Wildside và Jones đổi tên lại thành A.J. Styles . Styles thắng chiếc đai Television Champion thứ 2 vào ngày 8 tháng 1, 2000 , đánh bại K-Krush (Ron Killings) . Anh mất đai về tay Eddie Golden ngày 1 tháng 4 và lấy lại nó lần 3 ngày 6 tháng 1 , 2001 , đánh bại Air Paris (Frank Paris) trong lúc đang trong vai heel ở NWA Wildside là thành viên của nhóm NWA Elite của Jeff G. Bailey . LẦn giử đai cuối này kết thúc ngày 21 tháng 2 khi anh thua nó cho Robbie Rage ở Athens, Georgia .
World Championship Wrestling và World Wrestling All-Stars (2001–2002)
World Championship Wrestling, 1 công ty toàn cầu , lúc này đang thu nhận nhân tài của NWA Wildside , tạo ra mối thù giữa Styles (lúc này tên Frank the Painter) và Paris và cả 2 đều được hợp đồng đầu năm 2001 . Styles và Paris được nhóm lại với nhau thành 1 tag team tên "Air Raid" và phong cách mới , cả 2 đều mặc đồ G-suits . Air Raid xuất hiện lần đầu tại WCW Thunder và ngày 5 tháng 3, 2001, tại WCW Monday Nitro , họ tham gia vào giải tranh đai WCW Cruiserweight Tag Team Champions mới được tạo . Họ bị loại ngay vòng đầu tiên cho đội sau đó thắng cuộc , Elix Skipper và Kid Romeo (Sam Roman).
Sau khi WCW bị bán lại cho World Wrestling Federation vào tháng 3 năm 2001 , Styles rời đi mà không có việc làm . Anh quay lại NWA Wildside , anh thi đấu tranh đai Wildside Heavyweight Champion và đấu vài trận cho WWF ở WWF Jakked . Styles nhận được lời đề nghị phát triển thêm của WWF vào tháng 4 năm 2002 . Lời đề nghị là US$500 mỗi tuần và Styles phải di cư đến Cincinnati, Ohio , là nơi chương trình phát triển Heartland Wrestling Association định vị . Anh từ chối vì sẽ ảnh hưởng đến dự định đại học của vợ mình .
Styles đi theo tour Australia với công ty có thời gian tồn tại ngắn , World Wrestling All-Stars (WWA) vào tháng 4 năm 2002 . Anh thi đấu pay-per-view đầu tiên của mình tại WWA: The Eruption vào 13 tháng 4 tại Melbourne , đánh bại Nova(Michael Bucci) và Jerry Lynn trong 1 đêm để trở thành WWA International Cruiserweight Champion . Sau đó , anh bỏ trống đai .
Trở về NWA Wildside (2001–2005)
Sau sự hạn chế của mình tại World Championship Wrestling , Styles trở về Wildside và theo đuổi đai NWA Georgia Champion , được giữ bởi Rick Michaels . Anh đánh bại Michaels giành được đai ngày 22 tháng 12, 2001 tại Christmas Chaos . Khi là vô địch , Styles thúc đẩy mối thù với manager cũ , Jeff G. Bailey , phục vụ cho "The Role Model" Jason Cross (William Massengale), ng` cóp py hoàn toàn của Styles , từ quần áo thi đấu đến FN cũng y nhau (kịch bản này sau này được dùng lại hoàn chỉnh hơn bởi Ring of Honor , và Jimmy Rave (James Guffey) trong vai con ma của người đang sống là Styles). Styles mất đai NWA Wildside Heavyweight Champion cho David Young (David Williams) trong trận 3-Way Dance có cả Rick Michaels vào ngày 23 tháng 3, 2002 tại Hardcore Hell . 1 thời gian ngắn sau đó , Styles ký hợp đồng với NWA:TNA và chỉ thỉnh thoảng trở về Wildside trong các kỳ xuất hiện đặc biệt để tăng giá trị bản thân . Những lần đặc biệt đó tại Freedom Fight tháng 7 năm 2002 , Styles là ng` cuối cùng bước vào trận "Holy Wars" steel cage tranh đai Wildside Champion . Lúc này cũng đang giữ đai TNA X Division Champion , Styles bị pin bởi kẻ thù lâu dài "All That" Adam Jacobs . Anh làm thêm vài lần xuất hiện nữa suốt năm 2002 , đánh bại Sonny Siaki , Jorge Estrada và Jacey North trong vài trận 1 đấu 1 .
Tháng 3 năm 2003 , Styles đánh bại kẻ thù cũ Ron Killings tại Hardcore Hell . Tháng 10 năm 2003 , anh hướng tới thêm 1 thêm trận Wildside nữa , đối mặt với "The Soul Assassin" Rainman . Styles đang là NWA World Heavyweight Champion vào lúc này và trận này được sắp là 1 trận tranh đai , nhưng Jeff Jarrett đánh bại Styles lấy đai trước đó 3 ngày nên phải bỏ kế hoạch . Với kết quả đó , Jarrett đồng ý bảo vệ đai NWA World Heavyweight Champion trong 1 trận three way . Jarrett rút lui vào phút cuối cùng , bỏ lại Styles và Rainman đánh nhau và Rainman thắng sau khi Jeff G. Bailey lên can thiệp . Styles đánh bại David Young tại Christmas Chaos tháng 12 năm 2003 . Ngày 26 tháng 3 , 2004 tại 2 đêm Hardcore Hell anh đánh bại “đệ tử” của mình , "Kool" Seth Delay trong 1 trận impromptu , sau đó cùng nhóm với Gabriel và Altar Boy Luke (Oren Hawxhurst) (với Dusty Rhodes [Virgil Runnels, Jr.] cổ vũ cho mình) đánh bại Rainman , Azrael và "The Fallen Angel" Christopher Daniels (Daniel Covell) trong trận six man tag team main event tối hôm sau .
Sau khi vắng mặt gần 1 năm , Styles trở về Wildside ngày 25 tháng 3, 2005, thua cho rường cột Wildside , David Young trong trận rất được fans tung hô , cổ vũ nhiệt liệt . Sau trận , Styles giới thiệu 1 giải thưởng cho Wildside Promoter Bill Behrens , cùng David Young và Rick Michaels . Đó là lần xuất hiện ở Wildside cuối cùng của anh .
Ring of Honor
2002–2004
Styles debut vào Ring of Honor (ROH) tại show thứ 3 , A Night of Appreciation, năm 2002 . Anh nhanh chóng trở thành main eventer , thi đấu với Low Ki (Brandon Silvestry) tranh ROH Champion tại Honor Invades Boston . Sau khi thất bại , anh trở thành ng` đầu tiên giữ "Number One Contender's Trophy" bây giờ nó trở thành đai hạng 2 . Tại One Year Anniversary Show tháng 2 năm 2003 , Styles đấu với Low Ki và Paul London trong trận three-way , ng` chiến thắng sẽ nhận được 1 suất tranh đai ROH Champion ngay trong đêm đó . London thắng trận nhưng thất bại trước Xavier (John Jirus) để tranh đai . Sau show đó , Styles và London đồng ý nhóm lại thành 1 tag team và tham gia thi đấu tranh đai ROH Tag Team Champion . được xếp 1 trận tranh number one contender tranh đai cho show tiếp theo , London không thể thi đấu vì phải phẫu thuật xoang khẩn cấp vào 1 ngày trước đó . Thay vào đó , Styles tự mình đấu và thắng The Backseat Boyz (Johnny Kashmere và Trent Acid [Michael Verde]) , The S.A.T. (Jose Maximo [Julio Ramirez] và Joel Maximo [Kelvin Ramirez]) và The Carnage Crew (HC Loc [Matt Knowles] và Tony DeVito) để có 1 vé tranh đai . Anh chọn Amazing Red (Jonathan Figueroa) là bạn cặp mình và cả 2 thắng The Prophecy (Christopher Daniels và Xavier) giành được đai . Khi London trở về , anh rất buồn phiền khi Styles chọn giữ nguyên nhóm với Red thay vì tạo lại nhóm với mình . Cả 2 đấu với nhau tại Night of the Grudges, với kết thúc hòa . Styles và Red , là ROH Tag Team Champions , đánh bại Briscoe Brothers (Jay Briscoe và Mark Briscoe) trong 3 trận khác nhau . Cả 2 sau đó không thành công trước The Prophecy . Tại Wrath of the Racket , Jim Cornette (James Cornette) xuất hiện lần đầu tại ROH và hợp tác với Christopher Daniels và Dan Maff (Dan Lopez) . Trong lúc tạm nghĩ , ông đề nghị cả 2 tấn công Amazing Red , lúc này đang bị chấn thương đầu gối , khi đang ký cho fan . Red không thể tham gia , Styles cho huấn luyện viên cũ của Maff là Homicide (Nelson Erazo) là bạn cặp và cả 2 thắng The Prophecy . Styles sau đó phải để trống đai vì Red phải nghỉ dưỡng thương .
Sau khi mất đai ROH Tag Team Champions , Styles nhận đồng hương Georgia với mình là Jimmy Rave là “đệ tử” . Khi huấn luyện cho Rave , lúc này Rave đang tham gia giải "Field of Honor" , Styles dự định trở thành ROH World Champion . Anh đánh bại Bryan Danielson tại Main Event Spectacles để trở thành number one contender cho đai này . Tại War of the Wire , Styles thách thức Samoa Joe (Joe Seanoa) tranh đai , nhưng thua trận . Tại Second Anniversary Show, anh tham gia vào giải tranh đai để trở thành Pure Wrestling Champion đầu tiên . Anh đánh thắng Jimmy Rave vòng đầu , Matt Stryker (Brian Woermann) vòng sau và CM Punk (Phillip Brooks) ở chung kết để trở thành ng` đầu tiên . Lần giữ đai này rất ngắn . Không lâu sau Second Anniversary Show , ROH owner Rob Feinstein bị bắt gặp trên internet đang cố nài nỉ quan hệ XXX với trẻ vị thành niên , tạo ra sự căng thẳng giữa ROH và Total Nonstop Action Wrestling (TNA) , lúc này Styles đang được TNA liên hệ . Dù vậy , Styles vẫn quay về ROH show hôm sau , At Our Best, và đánh bại CM Punk trong trận rematch có Ricky Steamboat (Richard Blood) là trọng tài đặc biệt . Đó là trận cuối cùng của Styles ở ROH trong năm 2004 , vì TNA bắt đầu rút các đấu sĩ của mình từ ROH về . Styles rời công ty và bỏ trống đai Pure Wrestling Champion .
2005–2006
Mùa hè năm 2004 , “đệ tử” của Styles , Jimmy Rave bị “sa thải” bởi Ring of Honor vì không thắng được trận nào . Anh ta được thuê lại vào công ty nhờ Prince Nana (Prince Bandoh) và trở thành "The Crown Jewel of The Embassy" . Anh ta bắt đầu dùng Rave Clash ("Styles Clash") làm FN , nói rằng Styles chôm nó từ anh . Ngay tức thì , Styles chịu hết nổi và quay lại Ring of Honor for 1 đêm duy nhất , tại Third Anniversary Celebration: Part Two, để đấu với Rave . Styles thất bại trong việc hạ Rave , sau khi Rave dùng bình xịt thơm xịt vào mắt Style . Vài tháng sau , Styles trở về thi đấu ở Ring of Honor dài lâu . Anh quay về ở Death Before Dishonor III đánh bại đồng nghiệp TNA , Petey Williams (Peter Williams) , Petey cũng được mang lại bởi Prince Nana để đấu với Styles thay vì để Jimmy Rave . Styles thắng Rave vào show sau . Rave , sau khi thua , cố chụp cái túi nhựa lên đầu Styles định làm anh ngộp thở . Trong lúc thù với Jimmy Rave và The Embassy , Styles liên kết với Generation Next , cũng đang thù với The Embassy và thủ lĩnh cũ của họ Alex Shelley (Patrick Martin) , gia nhập bên kia . Styles đầu tiên hạ thành viên của Generation Next là Roderick Strong (Chris Lindsey) tại Fate of an Angel vào giữa tháng 7 . Show sau , Styles đấu và thua cho Jimmy Rave trong trận street fight . Sau trận , Styles bị tấn công bởi The Embassy , Rave thực hiện đòn Rave Clash lên anh . Austin Aries (Dan Solwold) và Roderick Strong định chạy vào cứu anh , nhưng bị đánh lùi ra . Tại Glory by Honor IV , Styles 1 lần nữa đánh với Jimmy Rave , trận này có điều kiện : ng` thua cuộc sẽ không bao giờ được sử dụng Rave/Styles Clash ở Ring of Honor nữa . Có Mick Foley (Michael Foley, Sr) bên phe mình , Styles làm lên Rave 1 đòn Styles Clash từ dây thứ 2 , xuống gãy bàn và chiến thắng . Styles sau đó có 1 thời gian ngắn nghỉ khỏi ROH trước khi quay lại ở This Means War vào cuối tháng 10 . Anh đánh bại thủ lĩnh Generation Next , Austin Aries, ng` sau đó bị tấn công bởi The Embassy . Show kế đến , Aries đánh bại thủ lĩnh cũ của Generation Next , Alex Shelley . Sau trận , Aries lại bị tấn công bởi The Embassy , cho tới khi 1 thành viên nữa của Generation Next Matt Sydal (Matthew Korklan aka Evan Bourn) chạy ra giúp . Trong đêm đó , Styles và Sydal đánh bại 2 thành viên của Embassy là Jimmy Rave và Abyss trong trận tag . Tại Vendetta , Styles có trận cuối cùng gặp The Embassy khi anh cùng Austin Aries , Jack Evans (Jack Miller) và Matt Sydal bị thua cho Rave , Shelley , Abyss và Prince Nana trong trận eight-man tag .
Sau mối thù với The Embassy , Styles ra dấu hiệu sẽ thắng được đai Ring of Honor . Tại A Night of Tribute , Styles đấu với Christopher Daniels và Matt Sydal trong trận Triple Threat , ng` thắng sẽ có 1 vé tranh đai ROH World Champion trong ngay đêm đó . Daniels thắng trận , nhưng không thắng nổi Bryan Danielson giành đai . Vào show đầu tiên của năm 2006, Styles đấu và thắng Matt Sydal . Sau trận , cả 2 đồng ý lập ra 1 tag team và tranh đai ROH Tag Team Champion , đang được giữ bởi nhóm Generation Next của Sydal , Austin Aries và Roderick Strong . Trước ki có suất tranh đai này , Styles nhận được 1 vé tranh đai ROH World Champion khi anh được chọn bởi Danielson . Dù thắng cả 2 trận quan trọng với Danielson trước đó ở ROH , Styles vẫn thất bại giành đai . Tại Fourth Anniversary Show , Styles và Sydal có vé tranh đai ROH Tag Team Champions , nhưng giành đai thất bại . Sau trận , Aries và Strong bị tấn công bởi Briscoe Brothers , nhóm vừa mới trở về ROH lần đầu kể từ 2004 . Styles và Sydal chạy tới cứu và đuổi Briscoes đi .
Styles xuất hiện ngày càng ít ở Ring of Honor . Sau 1 lần vắng mặt , Styles trở về tại Death Before Dishonor IV, đánh bại Davey Richards . Styles trở về Ring of Honor tại Time to Man Up , thua cho Samoa Joe . Styles nói anh sẽ nghỉ vài tháng khỏi Ring of Honor sau trận này . BLV của ROH , tiếp tục bình luận trận cuối đó của anh và còn làm 1 ngày tưởng niệm đặc biệt nữa . Kể từ đó , AJ Styles vẫn chưa trở lại Ring of Honor .
Total Nonstop Action Wrestling
Debut (2002)
Tháng 5 năm 2002 , Styles đã ký 1 hợp đồng với Total Nonstop Action Wrestling (TNA) và mang tên "The Phenomenal" A.J. Styles (được đặt bởi BLV Dan "The Dragon" Wilson của NWA Wildside) . Anh xuất hiện trong tuần pay-per-view TNA đầu tiên , cùng nhóm với Jerry Lynn và Low-Ki thua cho The Flying Elvises : Jorge Estrada, Sonny Siaki và Jimmy Yang [James Yun]) . Tuần sau , ngày 26 tháng 6, Styles đánh bại Lynn , Low-Ki và Psicosis trong trận double elimination để trở thành TNA X Division Champion đầu tiên . Anh thắng đai thứ 2 nữa tại TNA pay-per-view , cùng thắng Lenny Lane (Leonard Carlson) và Bruce (Alan Funk) trong trận chung kết tranh đai NWA World Tag Team Champions . Styles bảo vệ thành công cả 2 đai của mình ở tuần sau đó , nhưng lại bắt đầu cãi nhau vặt với kỳ cựu Lynn trong những trận chung . Ngày 14 tháng 8, anh và Lynn đấu với Ron Killings và Jeff Jarrett kết thúc no-contest và 2 đai này được giữ lại . Tuần sau , anh và Lynn đấu với nhau trong trận Falls Count Anywhere (which Lynn thắng), 1 trận No Disqualification (Styles thắng) và 1 phút Iron Man hòa 3-3 . Styles mất đai về tay Low-Ki trong trận three way dance . Ngày 28 tháng 8 , Low-Ki phải bảo vệ đai X Division Champion trước Lynn và Styles trong trận ladder và thua mất đai cho Lynn . Thu nhận Mortimer Plumtree (David Webber) và Sonny Siaki làm liên minh , Styles tiếp tục thù với Lynn trong nhiều tuần liên tục . Ngày 23 tháng 10 , anh thắng Syxx-Pac (Sean Waltman) tranh đai X Division Champion , trở thành 2 lần vô địch . Anh mất đai cho Lynn lần 2 vào ngày 6 tháng 11 và thất bại giành lại nó suốt năm .
World Heavyweight Champion (2003–2004)
Năm 2003 , Styles bắt đầu tập trung vào đai NWA World Heavyweight Champion . Sau khi đánh bại David Flair ngày 15 tháng 1 để trở thành number one contender , Styles nhớ sự giúp đỡ của Larry Zbyszko (Lawrence Whistler) và liên kết với nhóm Sports Entertainment Xtreme của Vince Russo . Styles đối mặt với NWA World Heavyweight Champion Jeff Jarrett ngày 19 tháng 2 nhưng bị đánh bại . Trong trận này , Styles trở thành ng` rất được fan yêu thích , anh đánh trả lại S.E.X. khi họ cố can thiệp vào để giúp anh mà anh không muốn thắng bằng cách này .
Styles hợp nên tag team mới với D'Lo Brown tháng 4 năm 2003 . Trong những lúc cùng nhau , Styles học được đòn frog splash (như của Art Barr) từ Brown và Brown thích thú học đòn suicide plancha của Styles . Cả nhóm tan rã ngày 28 tháng 5 để cả 2 có theo đuổi đai NWA World Heavyweight Champion 1 lần nữa . Cả 2 đánh nhau ngày 4 tháng 6 để tranh number one contender và Styles thắng và vào ngày 11 tháng 6 , Styles đối mặt Jarrett và Raven (Scott Levy) trong 1 trận three-way tranh Heavyweight Champion . Styles thắng trận và đai vô địch (trở thành TNA Triple Crown đầu tiên trong lịch sử TNA ) sau khi Vince Russo lên sàn và đập cây guitar vào đầu Jarrett , sau đó anh ăn mừng cùng Russo , chuyển sang heel 1 lần nữa . Suốt tháng 7 năm 2003 , Styles bảo vệ đai thành công trước Brown . Suốt những ngày còn lại của lần giữ đai này , anh thắng vô số các đối thủ được chọn khác trước khi mất đai cho Jarrett ngày 22 tháng 10 . Sau lần thua đó , Styles quay lại được yê thích và Jarrett sang heel . Dù Jarrett's bắt buộc Styles quay về hạng X Division , Styles tiếp tục theo đuổi World Heavyweight Champion . Ngày 12 tháng 11 , anh cùng Sting đánh bại Jarrett và Lex Luger . Styles đối mặt với Jarrett để giành đai Heavyweight Champion ngày 3 tháng 12 , nhưng thua sau khi bị đánh lén bởi Kid Kash (David Cash) .
Styles thù với Jeff Jarrett và Abyss (Chris Parks) suốt tháng 1 , và ngày 4 tháng 2 , 2004 sau khi Styles đòi 1 suất tranh đai , đồng minh của Jarrett là Don Callis buộc anh phải cùng nhóm với Abyss để tranh đai NWA World Tag Team Champions , của Kevin Northcutt và Legend (Joe Hitchen) . Abyss cản trở Styles' nhiều lần trước khi bỏ rơi anh hoàn toàn . Styles đánh bại cả 2 đối thủ trở thành 2 lần NWA World Tag Team Champion với Abyss là bạn cặp . Tuần sau đó , Styles đánh bại Abyss cho trận để lấy luôn 2 đai tag team do disqualification sau khi Jarrett can thiệp . Chiến thắng này bị Callis làm đảo lộn , thêm 1 trận nữa tại tuần sau thắng bởi Abyss sau khi Lex Luger can thiệp vào , và Abyss kiểm soát cả 2 đai . Abyss và Styles tiếp tục mối thù và vào 17 tháng 3 , Abyss thắng Styles để là number one contender cho đai NWA World Heavyweight Champion .
Ngày 21 tháng 4 , Chris Harris, ng` được sắp xếp đấu với Jarrett in trong đêm đó bị tấn công bởi Raven . Vì vậy , Vince Russo, bây giờ là TNA Director of Authority , chọn Styles để đấu với Jarrett trong trận steel cage . Sau khi Jarrett định đánh Styles với cây guitar , Russo cố ngăn Jeff từ bên ngoài , giúp Styles đứng dậy và phá nát cây guitar với đòn Pelé kick từ sau quay lại . Styles pin Jarrett trở thành 2 lần NWA World Heavyweight Champion . Anh bảo vệ đai thành công trong trận gặp Ron Killings , Raven và Chris Harris , và vào 19 tháng 5 , anh đấu với cả 3 trong trận four-way tranh đai . Styles thua mất đai cho Killings sau khi Jarrett can thiệp , đập anh với cây guitar .
X Division (2004–2005)
Styles trở về hạng X Division 1 thời gian ngắn sau đó , thắng trận four-way để là number one contender của đai X Division Champion ngày 4 tháng 6 tại TNA Impact! . Ngày 9 tháng 6 , anh đánh bại Frankie Kazarian (Frank Gerdelman) để là 3 lần X Division Champion . Những tuần sau đó , Styles thù với Kid Kash và Dallas (Lance Hoyt) , khi thành công bảo vệ đai thành công trước Kazarian và Mr. Águila . Ngày 23 tháng 6 , Jeff Hardy xuất hiện và bị can thiệp bởi Kash và Dallas . Ngày 28 tháng 7 , anh bảo vệ đai trước Kazarian và Michael Shane (Matt Bentley) trong 1 trận Ultimate X . Sau khi Kash kẹp Styles với cái nạng , Shane và Kazarian cùng giật đai xuống cùng lúc và cùng trở thành co-X Division Champions ( đồng vô địch ) . Sau vài dự định lấy lại đai , Styles đấu với Kash trong nhiều trận , hay nhất là trận tables ngày 8 tháng 9 thắng bởi Styles . Vào tháng 10 , anh bắt đầu thù với Petey Williams , ng` đang là TNA X Division Champion , và vào 7 tháng 11 tại Victory Road , pay-per-view của tháng đầu tiên của TNA , Styles thách thức Williams tranh đai X Division Champion . Trong những tuần chuẩn bị cho trận này , Styles còn đi xa hơn nữa , sử dụng FN của Williams , đòn Canadian Destroyer , sau khi Williams tự mình làm đòn Styles Clash lên ng` khác . Williams giữ lại đai nhờ sự trợ giúp của manager của mình , Scott D'Amore . Cũng đêm đó , Jeff Jarrett cũng bảo vệ được đai NWA World Heavyweight Champion trong trận ladder trước Jeff Hardy sau khi Scott Hall và Kevin Nash can thiệp . Sau trận , cả 3 tự gọi mình là "Kings of Wrestling" và thách thức rộng rãi cả hàng ngũ đấu sĩ TNA . Vài đấu sĩ chạy ào ra sàn trả lời lời thách thức , gồm 3Live Kru (Ron Killings, Konnan [Charles Ashenoff] và B.G. James [Brian Gerard James]), Randy Savage (Randall Poffo), và Styles .
Tại Final Resolution ngày 16 tháng 1, 2005 Styles giành được đai X Division Champion for a fourth time in aần thứ 4 trong trận Ultimate X , đánh bại Chris Sabin (Joshua Harter) và nhà vô địch , Petey Williams . Ngày 21 tháng 1 tại Impact!, Christopher Daniels buộc tội Styles vì dám "dìm anh" (Styles và Daniels chưa bao giờ đấu 1 chọi 1 với nhau ở TNA) . Sau khi Daniels thách thức Styles 1 trận ở TNA pay-per-view tháng sau , TNA Director of Authority Dusty Rhodes tuyên bố Styles và Daniels sẽ đấu nhau vào ngày đó , và Daniels sẽ có 1 suất tranh đai nếu Styles không thể đánh bại anh trong 10 phút . Daniels trụ hơn 10 phút và dĩ nhiên đối đầu với Styles trong trận 30 phút iron man tranh đai X Division Champion tại Against All Odds với kết quả hòa sau khi cả 2 đều có điểm là 1-1 . Rhodes bắt đầu lại trận với luật "sudden death" và Styles đánh bại Daniels giữ lại đai . Mối thù giữa Styles và Daniels tiếp diễn và tại Destination X ngày 13 tháng 3 , Styles thua đai trong trận Ultimate X Challenge với Daniels , Ron Killings và Elix Skipper . Skipper loại Killings và Daniels loại Skipper , trở thành 1 tranh đấu đơn . Khi trọng tài còn bất tỉnh , Styles đã lấy đai xuống , nhưng Daniels hạ gục anh với đòn Angel's Wings và giật lấy đai . Khi trọng tài tỉnh dậy không lâu sau đó , ông đưa phần thắng và đai X Division Champion cho Daniels .
Sau khi thua mất đai X Division Champion , Styles bắt đầu thù lại với Abyss . Tại Lockdown , anh thắng Abyss trong trận steel cage để trở thành number one contender cho đai NWA World Heavyweight Champion . Styles đánh bại nhà vô địch Jeff Jarrett , tại Hard Justice ngày 15 tháng 5 . Sau khi Jarrett đẩy trọng tài ra , đó là Tito Ortiz , Ortiz đấm Jeff gục , giúp Styles dùng đòn Spiral Tap và pin Jarrett giành được đai NWA World Heavyweight Champion thứ 3 . Styles mất đai tại Slammiversary cho Raven trong 1 trận King of the Mountain . Styles lúc này quay lại săn đuổi chiếc đai X Division Champion , bước vào TNA 2005 Super X Cup Tournament , ng` thắng sẽ có 1 vé tranh đai X Division Champion . Styles đánh bại Matt Bentley ở tứ kết và Petey Williams ở bán kết , nhưng thua cho Samoa Joe tại Sacrifice . Vì Christopher Daniels (ng` đang giữ X Division champion) đã can thiệp vào trận , TNA Director of Authority Larry Zbyszko thêm Styles vào trận tranh đai đó . Ngày 11 tháng 9 tại Unbreakable , Styles thắng Samoa Joe và Daniels trong trận three-way để trở thành TNA X Division Champion lần 5 . Itrận này được đánh giá 5 Star Match bởi Dave Meltzer , đây cũng là trận đầu tiên vinh dự hạng nhì Match of the Year của Pro Wrestling Illustrated .
Liên kết với Christopher Daniels (2006)
Tại Against All Odds , Styles và Daniels thách Samoa Joe 1 trận tranh đai X Division Champion . Styles thua sau khi trúng đòn Muscle Buster của Joe . Samoa Joe lại đấu với Styles và Daniels tranh đai X Division Champion trong 1 trận Ultimate X tại Destination X và mất đai về tay Daniels . Sau khi Daniels lại mất đai lại về tay Samoa Joe , Styles hợp lực cùng Daniels và thách thức America's Most Wanted tranh đai NWA World Tag Team Champions . Sau khi thua cho America's Most Wanted tranh đai 2 lần , Styles và Daniels giành được đai NWA World Tag Team Champions tại Slammiversary .
Kỳ Impact! kế tiếp , Styles và Daniels thách thức tất cả các tag teams của TNA , và từ đó châm ngòi cho mối thù với The Latin American X-Change (Homicide và Hernandez [Shawn Hernandez]) (LAX), và 2 đội ký hợp đồng đấu nhau tại Hard Justice và Styles và Daniels thắng . Ngày 24 tháng 8 tại Impact!, Homicide và Hernandez đánh bại Styles và Daniels trong trận Border Brawl để giành được đai NWA World Tag Team Champions . Tại No Surrender , Styles và Daniels đánh bại LAX trong trận Tag-Team Ultimate X để lấy lại đai sau khi Styles thực hiện đòn Styles Clash lên Homicide gãy bàn cho phép Christopher Daniels giật cái đai đang treo xuống Họ lại mất đai về tay LAX tại Bound for Glory trong trận Six Sides of Steel sau khi Homicide dùng đòn Gringo Killer lên Styles trong khi Daniels bị trói chặt vào thành lồng bằng áo khoác của Konnan .
Ngày 2 tháng 11 tại Impact!, anh pin Chris Sabin để bắt đầu lần giữ đai X Division Champion thứ 6 . Đó cũng là trận tứ kết cho giải Fight For The Right tranh number one contender của đai NWA World Heavyweight Champion mà Sting đang giữ . Ngày 9 tháng 11 , Impact!, Styles thắng trận bán kết nhưng thua ở chung kết dưới tay Abyss sau khi Christian Cage (William Reso) và Sabin can thiệp . Ngày 16 tháng 11 , Impact!, show bắt đầu chiếu thêm giờ , Styles mất đai TNA X Division Champion cho Daniels trong trận 3-way khi Daniels rollup Sabin trong lúc Styles was đang bận tay xử lý Cage . Tại Genesis , Styles thua cho Cage . Trong lúc trận đấu đang diễn ra , Daniels định ngăn không cho Cage sử dụng cái ghế làm vũ khí , giúp Styles roll up Cage , nhưng Cage đảo cú roll up bằng cách ngồi luôn lên Styles và có đủ 3 tiếng đếm . Sau trận , Styles và Daniels có đang cãi nhau , dẫn tới việc Rhino chạy lên sàn đấu để giải quyết việc này . Styles từ chối bắt tay Daniels và bỏ đi . Styles và Daniels cùng nhau đấu cặp lần cuối tại Thanksgiving Day , Impact!, đánh bại The Naturals . Sau trận , Rhino lại xuất hiện để giơ cao cả 2 tay cả 2 lên . Styles giật tay lại , và lại bỏ đi , nói rằng anh đã chán ngán việc Rhino cứ xen vào việc của anh . Anh la hét Rhino 1 lần nữa trong lúc phỏng vấn tại Impact! và 1 lần nữa sang heel . Tại Turning Point , Styles thắng Rhino sau ki giả vờ bị chấn thương đầu gối và roll up để thắng .
Thù với Rhino và liên kết với Tomko (2006–2008)
This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 814x1024.
Ngày 22 tháng 12 , Impact!, Styles hợp cùng Samoa Joe lần đầu để đối mặt với Rhino và Kurt Angle . Styles và Joe thắng sau khi Styles roll up Rhino lần nữa , nhưng Kurt Angle và Rhino vẫn tiếp tục đánh tới tấp Styles và Joe . Tại Final Resolution , Styles đấu với Rhino trong trận Last Man Standing . Sau 1 Gore của Rhino , Styles quyết định để Rhino thắng trận dù rằng anh đang có lợi thế hơn . Việc này xảy ra vì Styles thấy Rhino dựng bàn lên để dùng nó vào anh nên tự động bỏ cuộc . Tại Destination X , Styles tham gia vào trận Elevation X đầu tiên gặp Rhino . Trận đấu diễn ra trên 1 công trình chữ X treo cao trên 20 foot . Styles nhận phần rơi khỏi Elevation X . Kỳ Impact! sau , anh định đánh lén Rhino , nhưng thất bại .
Anh là thành viên đầu tiên của đội Christian Cage tại Lockdown . Tại Lockdown , Team Cage thất bại trước Team Angle . Ngày 31 tháng 5 , Impact! , anh đánh bại Tomko (Travis Tomko) trong trận để tham gia vào King of the Mountain . Styles cùng Tomko đấu với Sting (Steve Borden) và Abyss tại Victory Road nhưng bị thua . Tại No Surrender , Styles và Tomko thắng trận 10-tag team gauntlet để có 1 vé tranh đai tag team tại Bound for Glory 2007 với Team Pacman (Ron Killings và Pacman Jones [Adam Jones]) . Tại Bound for Glory , Styles và Tomko đánh bại Team Pacman giành được đai TNA World Tag Team Champions . Styles và Tomko đánh bại LAX ngày 1 tháng 11 ở Impact! bảo vệ đai TNA Tag Team . Sau đó , Styles thách thức Scott Steiner (Scott Rechsteiner) 1 cuộc thi vật ngã , anh thua do DQ . Tại Genesis , anh bảo vệ đai thành công trước Steiner Brothers (Scott và Rick [Robert Rechsteiner] Steiner) sau khi low blow Rick và thêm 1 chair shot . Trong đêm đó , Styles và Tomko làm hỏng Christian trận tranh number one contender sau khi cãi nhau với Cage và họ còn giúp Kurt Angle bảo vệ đai thành công .
Sau khi Christian Cage chấp nhận lời mời gia nhập vào Angle Alliance của Angle với điều kiện là Cage làm nhóm trưởng , Angle và cả nhóm tấn công Cage, trừ Styles (cố bảo vệ Cage) và Tomko (bỏ đi ra ngoài) . Ngày 28 tháng 12 , Styles và Tomko thua cho Motor City Machine Guns (Chris Sabin và Alex Shelley) trong trận tag team trong lúc Eric Young (Jeremy Fritz) định giúp Styles . 1 lúc sau của show , Styles bước ra xem trận Booker T (Robert Huffman) và Christian Cage đấu với Kurt Angle và Robert Roode ; anh bị chịu nhiều áp lực để chọn nhóm của Christian hay Angle , không thể quyết định trước khi hết show . Tại Final Resolution , anh phản lại Christian Cage bằng cách giúp Angle . Impact! tuần sau , Styles được trao tặng danh hiệu "Prince of Phenomenal" bởi Angle .
Vấn đề với nhà Angles và thù với Main Event Mafia (2008-hiện tại)
Ngày 14 tháng 2 tại Impact! , Styles, theo kịch bản, đã cưới Karen Angle . Trong vài tuần tiếp theo chiếu các đoạn video của Karen Angle và Styles đang hưởng tuần trăng mật , nói chuyện , thân mật và đóng như 1 cặp vừa kết hôn . Tuần sau đó , Styles chạy ra cứu Karen sau khi cô bị đập đầu (cô bị Kurt đẩy ra khi đến xem tình hình của Kurt). Karen sau đó cho biết rằng muốn tách ra khỏi Kurt . Trong lúc này , Styles và Tomko thua đai TNA World tag Team cho Kaz (Frankie Kazarian) và Super Eric (Eric Young) . Kurt buộc tội Styles và Karen dù cả 2 cố gắng nói rằng chỉ trên mức bạn , Styles rời khỏi Alliance . Để trả thù , Tomko (sau khi Styles cùng nhóm với Super Eric khi anh đang ở Nhật) phá Styles trận vào King of the Mountain với Booker T . Styles trở thành face 1 lần nữa ngày 29 tháng 5 tại Impact! sau khi bị tấn công ở hậu trường trước bài nhạc nền . Anh sau đó chạy vào sân đấu để giúp Karen , nhưng lại thành nạn nhân của Team 3D (Brother Ray [Mark LoMonaco] và Brother Devon [Devon Hughes]) và Kurt lần 2 liên tục . Tại Slammiversary , Styles đánh bại Kurt nhưng bị đánh tơi bời bởi bạn cặp của Kurt và bạn cặp cũ là Tomko sau trận . Mối thù diễn ra suốt cả Hard Justice , khi Styles và Angle trao đổi phần thắng . Sau Hard Justice , anh thắng Angle được huy chương vàng Olympic . Styles còn thắng cả trận rematch ladder tuần sau , kết thúc mối thù . Sau đó , anh được yêu cầu trả huy chương lại cho Kurt bởi Jeff Jarrett để làm dịu tình hình với Kurt .
Tại Bound for Glory IV , Styles đấu với Christian Cage và Booker T trong trận 3-way dance và Booker T sau 1 cú axe kick từ dây thứ 2 lên Cage . 1 thời gian ngắn sau đó , Booker T, Kurt Angle, Kevin Nash và Sting (vừa sang heel) lập nên 1 liên minh tối cao mang tên The Main Event Mafia . Ngày 23 tháng 10 , Impact! Styles cùng Samoa Joe đấu với Sting và Nash nhưng diễn ra rất ngắn sau khi Nash đập Joe với đai TNA World Heavyweight Champion của Sting . Sau việc này , Styles và Joe đều bị tấn công bởi Main Event Mafia . Ngày 30 tháng 10 tại Impact!, Styles và Joe cũng liên minh những đấu sĩ trẽ như Jay Lethal, Consequences Creed, Petey Williams, Eric Young, ODB và The Motor City Machineguns lại , cùng nhau , họ mang tên TNA Frontline . Đêm hôm đó , họ bất chợt bị tấn công bởi Main Event Mafia khi Scott Steiner trở về .
Anh thách Sting 1 trận tại Turning Point để giành đai TNA World Heavyweight Champion , nhưng thua sau khi bị đánh lạc hướng bởi Kurt Angle và Booker T . Tại Final Resolution , Styles 1 lần nữa thất bại trong việc giành được đai TNA World Heavyweight Champion , thua trong trận eight-man tag team với Main Event Mafia .
Kể từ đó , The TNA Frontline thu nhận thêm Rhino và Team 3-D về phe mình . The Frontline còn phải giải quyết vấn đề với The Motor City Machineguns , 2 tên này thể hiện 1 tý tôn trọng the Mafia và lại tấn công những ng` phe mình , như Petey Williams , Brother Ray và Samoa Joe . Ngày 22 tháng 1 , 2009 tại Impact! Kurt Angle thề sẽ kết thúc sự nghiệp Styles . Angle thắng AJ trong trận tables và Styles bị chấn thương ( kịch bản ) .
Tại Against All Odds , Styles trở về tấn công Booker T sau khi vừa bảo vệ được đai TNA Legends Champion . Sau việc làm này , anh trộm luôn đai Legends của Booker T , sau đó nổi điên lên đánh lén Booker T ở sau hậu trường nhiều tuần liền , việc này kết thúc khi Booker (withcùng Scott Steiner) thúc giục anh lên sàn đấu để bắt giữ (kịch bản) . Tại Destination X 2009 , Styles thắng Booker T để trở thành new TNA Legends Champion và là ng` đầu tiên TNA Grand Slam Champion , theo Mike Tenay nói . Styles đánh bại Booker T trong 1 trận "I Quit" tranh đai TNA Legends Champion tại Sacrifice khi Jenna Morasca ném vào 1 cái khăn vì lợi ích của Booker . Tại Slammiversary , Styles tham gia vào trận King of the Mountain tranh đai TNA World Heavyweight Champion nhưng thất bại sau khi Samoa Joe xoay lưng lại với Styles , giúp Kurt Angle thắng trận , Joe chuyển sang heel . Tuần tiếp theo , Joe giải thích là anh được Kurt “mua” lại bằng tiền , Styles đã cãi nhau với Joe , sau đó cả 2 đánh nhau và Styles bị Mafia vào hội đồng , Daniels cố vào cứu bạn mình cũng chung cảnh ngộ .
Điện ảnh
Styles giúp phát triển video game wrestling TNA đầu tiên mang tên TNA Impact! và cũng giúp phát triển Pro Wrestling X với Wrestling Gamers United .
Năm 2004 , TNA phát hành Phenomenal: The Best of AJ Styles , 1 DVD ghi lại những trận hay nhất của Styles . Năm 2007 , TNA phát hành DVD tiếp theo , Phenomenal: The Best of AJ Styles Volume 2. Thêm vào đó , Ring of Honor cũng cho ra 2 DVD về sự nghiệp lúc đầu của anh ở công ty . Evolution of a Phenom: The Best of AJ Styles ghi lại lần debut đến giữa năm 2003 . The Phenomenon Continues: The Best of AJ Styles Vol. 2 ghi lại những giây phút trước khi anh ra đi , từ giữa năm 2003 đến trận với CM Punk tại ROH Second Anniversary Show năm 2004 (trận cuối cùng thứ 2 trước khi rời khỏi ROH năm 2004) . Anh còn có 1 đợt shoot interview cùng Christopher Daniels cho tập "Straight Shootin’" của ROH .
Đời tư
Jones cưới 1 cô gái tên Wendy và có 2 con trai , Ajay Covell Jones, sinh ngày 3 tháng 5, 2005 và Avery Jones , sinh ngày 14 tháng 2, 2007 . Tên đệm của đứa con đầu lòng của anh lấy từ họ thật của bạn thân nhất và cũng là đồng nghiệp đấu sĩ của Styles , Daniel Covell . Cả gia đình sống ở Gainsville, Georgia . Wendy là nhân viên cho 1 trường đào tạo giáo viên .
Jones rất mộ đạo . Anh nói trong đời , "Chúa nhất và gia đình nhì." . Jason Clevett của SLAM! Wrestling đã gọi Styles là "one of the most respected and well-liked wrestlers in the world" ( 1 trong những đấu sĩ đáng kính và được yêu thích nhất trên thế giới ) .
Anh là 1 ng` rất ham mê game mà thường được nhắc đến (trong PowerSlam Mag) rằng anh không thích WWE SmackDown nhưng chỉ thích wrestling games Nintendo 64 AKI cũ . Anh còn nói wrestling game anh thích nhất là Virtual Pro Wrestling 2 của Nhật cho Nintendo 64 . Jones còn tự nhận trên tnawrestling.com rằng anh lớn lên trong 1 gia đình nghèo , 1 số có trong TNA home video Phenomenal: The Best of A.J. Styles Volume 2, khi Styles mang đoàn quay phim về ngôi ngà thời niên thiếu .
Jones tự nhận trong 1 cuộc phỏng vấn với New Zealand Pro Wrestling Journalists rằng gia đình anh không đủ tiền để lắp hộp cáp và anh không thể xem đấu vật chuyên nghiệp được .
Trong đấu vật
•FN
o Frog splash – 2003–2006; used rarely as a finishing move thereafter
o Spiral Tap[67] (Diving corkscrew somersault transitioned into either a leg drop or senton bomb)
o Styles Clash[2] (Belly to back inverted mat slam, sometimes from the second rope)
•Những đòn thường dùng khác
o Brainbuster
o Cliffhanger (Crucifix hold xoay thành DDT)
o Discus clothesline
o Dropkick
o Enzuigiri
o Flying armbar – 2008–hiện tại
o Fosbury Flop onto an opponent outside the ring
o Inverted STF
o Kip–up frankensteiner
o Over the shoulder belly to back piledriver
o Pelé Kick (Back flip kick)
o Phenomenon (Springboard moonsault vào đối thủ đang đứng chuyển thành inverted DDT)
o Rack Bomb (Backbreaker rack xoay thành powerbomb)
o Running swinging neckbreaker
o Shooting Styles Press (Springboard shooting star press)
o Spine Breaker (Backbreaker theo sau là gutbuster)
o Springboard flying forearm smash
o Starmaker (High–angle belly to back suplex)
o Styles Suplex Special (German suplex theo sau là belly to back wheelbarrow facebuster)
o Superman Splash (Springboard 450° splash)
o Tornado DDT
o Vertical suplex để đối thủ rơi theo thế neckbreaker slam
•Cùng Christopher Daniels
o Best Moonsault Ever bởi Daniels theo sau ngay lập tức 1 frog splash bởi Styles hay ngược lại
•Cùng Tomko
o Tornado–Plex (Aided whiplash)
•Managers
o Jeff G. Bailey
o Mick Foley
o Jimmy Hart
o Alexis Laree
o Trinity
o Larry Zbyszko
o Christian Cage
o Karen Angle
•Nicknames
o "The Phenomenal" A.J. Styles
o "The Phenomenal One"
o "The Most Decorated Man in TNA"
o "The Prince of Phenomenal" (Đặt bởi Kurt Angle)
o "Prince" A.J. Styles"
o "Mr. TNA"
"A.J. "Stylin' and Profilin'" Styles" (Được đặt bởi Ric Flair)
The New Nature Boy
[COLOR=yellow]* Màu vảng là nickname AJ đang dùng
•Nhạc nền
o "I Am" bởi Dale Oliver (TNA)
o "I Am (Phenomenal Remix)" bởi Dale Oliver
o "I Am (Second Remix)" bởi Dale Oliver (TNA / NJPW)
o "I Am (Third Remix)" bởi Dale Oliver
o "I Am" bởi GRITS
o "Re-Arranged" bởi Limp Bizkit (NKPW)
o "Touched" bởi VAST (ROH)
Đai vô địch và những thành công có được
[align=center]•
All Access Wrestling
o AAW Heavyweight Championship (1 time)
•
Ballpark Brawl
o Natural Heavyweight Championship (1 time)
•
Christian Wrestling Federation / Christian Wrestling Entertainment
o CWF/E Heavyweight Championship (2 times)
•
Independent Professional Wrestling
o IPW Heavyweight Championship (1 time)
•
Independent Wrestling Association Mid-South
o IWA Mid-South Heavyweight Championship (1 time)
o Ted Petty Invitational (2004)
•
International Wrestling Cartel
o IWC Super Indies Championship (2 times)
•
Independent Wrestling Revolution
o IWR King Of The Indies Championship (1 time)
•
Maximum Pro Wrestling
o Max-Pro Cruiserweight Championship (1 time)
•
Midwest Pro Wrestling
o MPW Universal Heavyweight Championship (1 time)
•
New Korea Pro Wrestling Association
o NKPWA Junior Heavyweight Championship (1 time)
•
NWA Wildside
o NWA Wildside Heavyweight Championship (1 time)
o NWA Wildside Television Championship (3 times)
•
Pro Wrestling Guerrilla
o PWG Championship (1 time)
•
Pro Wrestling Illustrated
o PWI Tag Team of the Year (2006) with Christopher Daniels
o PWI ranked him #8 of the top 500 singles wrestlers in the PWI 500 in 2004
•
Pro Wrestling Report
o Tag Team of the Year (2006) - with Christopher Daniels
•
Ring of Honor
o ROH Pure Wrestling Championship (1 time)(1)
o ROH Tag Team Championship (1 time) – with The Amazing Red
•
Total Nonstop Action Wrestling
o NWA World Heavyweight Championship (3 times)
o NWA World Tag Team Championship (4 times) – with Jerry Lynn (1), Abyss (1) and Christopher Daniels (2)
o TNA Legends Championship (1 time, current)
o TNA World Tag Team Championship (1 time) – with Tomko
o TNA X Division Championship (6 times)
o TNA Triple Crown Champion (3 times)
o First TNA Grand Slam Champion
o Mr. TNA (2003–2005)
o TNA Match of the Year (2006) with Christopher Daniels vs. Homicide and Hernandez at No Surrender, September 24, 2006
o TNA Tag Team of the Year (2006) with Christopher Daniels
• World Wrestling All-Stars
o WWA International Cruiserweight Championship (1 time)
• Wrestling Observer Newsletter awards
o 5 Star Match (2005) vs. Samoa Joe and Christopher Daniels at Unbreakable on S