Thử nhìn lại tình hình toàn cầu hóa: Chuyện gì đang xảy ra?
Toàn cầu hóa là một xu hướng rất mạnh mẽ và là mô hình được hoàn thiện sau nhiều năm ứng dụng trong thực tế. Cho nên, chỉ cần tìm hiểu cơ chế vận hành của nó, áp dụng đúng đắn cho một công ty, một đất nước cũng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và nếu làm được có thể thay đổi số phận của công ty đó, đất nước đó.
Không phải hiện tượng riêng lẻ
Công ty Dell đã làm sửng sốt mọi người vì kết quả kinh doanh quí 2-2006 quá tệ hại, lợi nhuận giảm đến 51% so với cùng kỳ năm trước.
Trước đây không lâu, Dell từng là điển hình của mô hình kinh doanh thời toàn cầu hóa, của kỷ nguyên nối mạng, của chuỗi cung ứng hiệu quả, được hàng chục sách giáo khoa nêu lên như một ví dụ mẫu mực. Nay mọi người lại mổ xẻ công ty này như một dấu hiệu rằng toàn cầu hóa không thuận buồm xuôi gió như vẫn tưởng.
Mô hình chuỗi cung ứng như Dell, sản xuất hay đặt hàng sản xuất mọi linh kiện của chiếc máy tính trên khắp thế giới ở nơi nào rẻ nhất rồi lắp ráp giao hàng cho khách khi có đơn đặt hàng, hóa ra không phải có lợi về chi phí như nhiều công ty từng lầm tưởng. Các chuỗi cung ứng đầy rủi ro, dễ bị khủng hoảng (như pin của Dell đặt mua từ Sony), khó quản lý và khó đạt mức lợi nhuận trên vốn đầu tư kỳ vọng.
Chính người sáng lập Hãng Dell, Michael Dell, cũng thừa nhận họ đã làm sai nhiều chuyện. Như vậy triết lý “quản lý chi phí” thường được khen ngợi hóa ra là sai lầm, cuối cùng phải thay bằng triết lý “quản lý dịch vụ và chất lượng”. Người ta cũng nhận ra rằng khách hàng cá nhân muốn tận tay sờ mó cái máy tính họ sẽ mua chứ không muốn biến mình thành cái máy, vào trang web của Dell chọn máy và nhấn phím trả tiền một cách vô hồn.
Ở một góc cạnh khác, Hãng Apple với chiếc máy nghe nhạc nổi tiếng iPod cũng đang gặp khó vì bị nhiều tổ chức quốc tế lên án đối tác gia công máy iPod cho Apple đã sử dụng nhân công giá rẻ ở Trung Quốc, bắt họ làm thêm giờ trong điều kiện làm việc khắc nghiệt. Thật tương phản giữa hai hình ảnh giới trẻ có tiền đeo chiếc iPod bên mình và giới trẻ cặm cụi lắp ráp máy suốt ngày mà đồng lương mỗi tháng chỉ bằng một góc chiếc máy họ ráp. Lẽ ra hội nhập đầy đủ, theo lý thuyết, có nghĩa đồng lương của công nhân có cùng tay nghề, cùng năng suất phải bằng nhau dù một người sống ở Mỹ, một người sống ở Trung Quốc.
Hàng loạt sự kiện tương tự như thế và các xu hướng lớn hơn như biến động giá dầu, tranh chấp thương mại, xung đột tôn giáo, mối đe dọa khủng bố lan rộng... cho thấy một điều: mô hình phát triển bất kể tiêu tốn tài nguyên, nhân lực, bất kể số phận con người, môi trường hay văn hóa đang được cân nhắc lại.
Tăng trưởng bằng mọi giá?
Nếu đơn giản hóa vấn đề, có thể thấy mô hình sản xuất xoay quanh một chữ V, dưới đáy là khâu sản xuất hay lắp ráp, ở hai đầu là các công đoạn “cao cấp” hơn như nghiên cứu, thiết kế hay tiếp thị, xây dựng thương hiệu. Toàn cầu hóa, với nhiều công ty đa quốc gia, là cố gắng đẩy các công đoạn nằm ở dưới đến các nước giá nhân công rẻ và giữ lại phần trên cho mình. Các nước cũng cố gắng trèo lên bậc thang giá trị để phát triển nhanh hơn.
Vấn đề của toàn cầu hóa, vì vậy, chính là ở chỗ định giá một cách bất công các khâu sản xuất này, giá tiền công sản xuất lúc nào cũng thấp hơn nhiều lần, chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong một chiếc giày thời trang chẳng hạn. Toàn cầu hóa được xem là đem lại cơ hội cho mọi người nhưng giá trị của cơ hội đó hoàn toàn khác nhau trong khi sản xuất đi liền với ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt, xáo trộn xã hội vì các dòng chảy lao động.
Ở các khâu “cao cấp”, vũ khí bảo vệ “giá trị” chính là quyền sở hữu trí tuệ, được các nước phát triển bảo vệ bằng mọi giá - bởi chỉ bằng cách này họ mới định được giá cao. Chính rào cản sở hữu trí tuệ làm cho các nước nghèo khó lòng bứt phá lên được, trong khi làm ra bao nhiêu tiền phải đổ vào hết để trả cho các khâu “thiết kế” hay “xây dựng thương hiệu”. Và để các nước chịu tham gia vào sự phân công khiên cưỡng này, luật lệ thương mại, mở cửa thị trường, tạo thuận lợi cho đồng vốn đầu tư được đặt ra và giám sát bằng cách định chế quốc tế.
Kết quả là cả thế giới trở thành bãi thử sản phẩm với hàng loạt đời máy tính, điện thoại di động... đua nhau ra đời. Một nghịch lý nữa của toàn cầu hóa là: đối chiếu với mô hình chữ V nói ở trên, lẽ ra đồng tiền đầu tư phải từ nước giàu đổ sang nước nghèo, nhưng thực tế hiện nay người dân châu Á vừa sản xuất hàng hóa vừa đổ tiền vào cho Mỹ vay để mua hàng hóa do mình sản xuất. Vì thế, một trong những vũ khí tạo ra sự công bằng trong thương mại - buộc đồng đôla Mỹ quay về đúng giá trị thật của nó - đã không thực hiện nổi.
Loay hoay tìm mô hình thay thế
Toàn cầu hóa là một xu hướng rất mạnh mẽ và là mô hình được hoàn thiện sau nhiều năm ứng dụng trong thực tế. Cho nên, chỉ cần tìm hiểu cơ chế vận hành của nó, áp dụng đúng đắn cho một công ty, một đất nước cũng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và nếu làm được có thể thay đổi số phận của công ty đó, đất nước đó. Dell đã thành công và tuy đang gặp khó vẫn là hãng máy tính hàng đầu thế giới. Cho nên các nỗ lực phủ nhận nó chỉ giới hạn ở các cuộc biểu tình phản kháng của các nhóm nhỏ nhân các hội nghị quốc tế. Các nỗ lực muốn thay đổi mô hình tận gốc rễ như vòng đàm phán thương mại của WTO đều thất bại.
Tuy nhiên, ở góc độ tư duy, nghiên cứu và đề xuất, đã có nhiều tiếng nói ngày càng mạnh mẽ. Làn sóng tân bảo thủ ở Trung Quốc đòi hỏi phát triển kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội, hay xu hướng xã hội ở các nước châu Mỹ Latin là những ví dụ. Ở đây phải nhận ra rằng phát triển kinh tế không phải là ưu tư hàng đầu của người dân, có chăng chỉ là của các công ty.
Các yếu tố khác đang chi phối cách ứng xử của con người với nhau như thái độ của người dân châu Âu với vấn nạn dân nhập cư, với chủ nghĩa khủng bố và sau đó, chính cách ứng xử này sẽ tác động về lâu về dài lên quá trình toàn cầu hóa với những điều chỉnh mới. Nói cách khác, tinh chỉnh toàn cầu hóa sao cho nó có lợi đồng đều cho mọi người là mục tiêu của nhiều nhà nghiên cứu, như nhà kinh tế được giải Nobel Joseph Stigliz.
Với các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, toàn cầu hóa thúc đẩy cải cách ở nhiều mặt nên tác động tích cực của nó hiện nay và trong một thời gian dài nữa vẫn nhiều hơn tác động tiêu cực. Chỉ có điều một nguy cơ rất dễ xảy ra là mô hình chữ V trong sản xuất nói ở trên lại xuất hiện ngay trong nội bộ một nước.
Lúc đó, người dân nghèo phải gánh các công đoạn dưới đáy và luật lệ sẽ được sửa đổi sao cho mọi người chấp nhận sự phân công khiên cưỡng ấy, sự định giá bất công ấy. Thử nhớ lại vụ chạy quota dệt may hàng trăm ngàn đôla và đồng tiền lương tháng mấy chục đôla của công nhân sẽ giúp ta nhận ra nguy cơ này.
NGUYỄN VẠN PHÚ