Công nghệ ảo hóa - những kiểu ảo hóa căn bản
tienmanh90 > 04-13-2020, 08:42 AM
Ảo hóa hệ thống lưu trữ về cơ bản là sự mô phỏng, kém chất lượng lập việc lưu trữ trong khoảng các vật dụng lưu trữ vật lý. Các thiết bị này với thể là băng từ, ổ cứng hay phối hợp cả hai mẫu. Việc khiến cho này mang lại các ích lợi như việc tăng tốc khả năng truy nã xuất dữ liệu, do việc phân chia những tác vụ đọc, viết trong mạng lưu trữ. Không những thế, việc mô hình các thiết bị lưu trữ vật lý cho phép tiết kiệm thời gian hơn thay vì phải định vị xem máy chủ nào hoạt động trên ổ cứng nào để tróc nã xuất.
Ảo hóa hệ thống lưu trữ mang ba dạng mô hình sau đây:
- Host-based: Trong mô hình này, ngăn cách giữa lớp ảo hóa và ổ đĩa vật lý là driver điều khiển của các ổ đĩa. Phần mềm ảo hóa sẽ truy xuất tài nguyên (các ổ cứng vật lý) thông qua sự điều khiển và truy vấn xuất của lớp Driver này.
- Storage-device based: Trong dạng này, phần mềm ảo hóa giao du trực tiếp có ổ cứng. Ta mang thể xem như đây là 1 dạng firmware đặc biệt, được cài trực tiếp vào ổ cứng. Dạng này cho phép tróc nã xuất nhanh nhất tới ổ cứng, nhưng bí quyết thiết lập thường khó khăn và phức tạp hơn các mô phỏng khác. Nhà cung cấp ảo hóa được phân phối cho các Server chuẩn y 1 thiết bị điều khiển gọi là Primary Storage Controller.
- Network-based: Trong mô phỏng này, việc ảo hóa sẽ được thực thi trên một trang bị mạng, ở đây với thể là một đồ vật switch hay 1 máy chủ. Những switch hay máy chủ này kết nối với những trung tâm lưu trữ (SAN). Trong khoảng các switch hay server này, những áp dụng kết nối vào được giao tiếp với trọng tâm dữ liệu bằng những “ổ cứng” mô hình do switch hay máy chủ tạo ra dựa trên trung tâm dữ liệu thật. Đây cũng là mô phỏng hay gặp nhất trên thực tiễn.
>>> Xem thêm: bán máy chủ HP ML350 Gen10
2. Ảo hóa hệ thống mạng
Ảo hóa hệ thống mạng là một tiến trình hợp nhất tài nguyên, trang bị mạng cả phần cứng lẫn phần mềm thành một hệ thống mạng ảo. Sau đó, những tài nguyên này sẽ được phân chia thành những channel và gắn với một máy chủ hoặc một vật dụng nào ấy.
với nhiều phương pháp để thực hành việc ảo hóa hệ thống mạng. Những cách này tùy thuộc vào các trang bị hỗ trợ, nghĩa là các nhà sản xuất trang bị đó, ngoài ra còn phụ thuộc vào cơ sở vật chất mạng sẵn có, cũng như nhà cung cấp nhà cung cấp mạng (ISP).Sau đây chúng tôi sẽ giới thiệu một vài mô hình ảo hóa hệ thống mạng:
- Ảo hóa lớp mạng (Virtualized overlay network): Trong mô hình này, rộng rãi hệ thống mạng ảo sẽ cùng tồn tại trên 1 lớp nền tài nguyên sử dụng chung. Những tài nguyên đó bao gồm các vật dụng mạng như router, switch, các dây truyền dẫn, NIC (network interface card). Việc thiết lập phổ quát hệ thống mạng ảo này sẽ cho phép sự luận bàn thông tỏ giữa những hệ thống mạng khác nhau, tiêu dùng những giao thức và công cụ truyền vận chuyển khác nhau, ví dụ như mạng Internet, hệ thống PSTN, hệ thống Voip.
- mô phỏng ảo hóa của Cisco: đấy là phân mô phỏng ảo hóa ra làm 3 khu vực, sở hữu những chức năng chuyên biệt. Mỗi khu vực sẽ mang các liên kết có những khu vực khác để cung ứng những biện pháp đến tay các bạn một cách thức thông suốt:
+ Khu vực quản lý truy tìm cập (Access Control): với nhiệm vụ chứng nhận người mua muốn đăng nhập để dùng tài nguyên hệ thống, qua ấy sẽ ngăn chặn các truy hỏi xuất không hợp lệ của người dùng; không những thế khu vực này còn rà soát, xác nhận và chứng nhận việc tróc nã xuất của khách hàng trong vào những vùng hoạt động (như là VLan, Access list).
+ Khu vực tuyến phố dẫn (Path Isolation): Nhiệm vụ của khu vực này là duy trì giao thông duyệt y tầng Network, vận chuyển liên lạc giữa các vùng khác nhau trong hệ thống. Trong các vùng này sử dụng giao thức khác nhau, như MPLs và VRF, cho nên cần 1 cầu nối để liên lạc giữa chúng. Ngoài ra, khu vực này có nhiệm vụ liên kết (maping) giữa các tuyến phố truyền dẫn với các vùng hoạt động ở hai khu vực cạnh nó là Access Control và services Edge.
+ Khu vực liên kết có dịch vụ (Services Edge): Tại đây sẽ vận dụng các chính sách phân quyền, cũng như bảo mật ứng sở hữu từng vùng hoạt động cụ thể; cùng lúc qua ấy cung cấp quyền tầm nã cập tới dịch vụ cho các bạn. Các nhà sản xuất sở hữu thể ở dạng san sẻ hay phân tán, tùy thuộc vào môi trường phát triển vận dụng và đề nghị của người dung
>>> Xem thêm: HPE ML30 Gen10
3. Ảo hóa áp dụng
Ảo hóa áp dụng là một dạng kỹ thuật ảo hóa khác cho phép chúng ta tách rời mối liên kết giữa vận dụng và hệ điều hành và cho phép cung cấp lại vận dụng phù hợp mang nhu cầu user. Một áp dụng được ảo hóa sẽ ko được cài đặt lên máy tính một cách thức thường nhật, mặc dầu ở góc độ người sử dụng, ứng dụng vẫn hoạt động 1 cách bình thường. Việc quản lý việc cập nhật phần mềm trở thành thuận tiện hơn, khắc phục sự đụng độ giữa những áp dụng và việc thử nghiệm sự tương xứng của chúng cũng phát triển thành tiện dụng hơn. Bây giờ đã sở hữu hơi nhiều chương trình ảo hóa ứng dụng như Citrix XenApp, Microsoft Application Virtualization, VMware ThinApp ... Mang hai chiếc khoa học cốt yếu sau:
- Application Streaming: ứng dụng được chia thành đa dạng đoạn mã và được truyền sang máy người sử dụng lúc cần đến đoạn mã đấy. Các đoạn mã này thường được đóng gói và truyền đi dưới giao thức HTTP, CIFS hoặc RTSP
- Desktop Virtualization/Virtual Desktop Infrastructure (VDI): ứng dụng sẽ được cài đặt và chạy trên 1 máy ảo. Một hạ tầng quản lý sẽ tự đông tạo ra các desktop ảo và cung ứng những desktop ảo này tới các đối tượng dùng.
4. Ảo hóa hệ thống máy chủ
Ảo hóa hệ thống máy chủ cho phép ta mang thể chạy nhiều máy ảo trên một máy chủ vật lý, mang đến phổ biến ích lợi như nâng cao tính di động, thuận tiện thiết lập mang các máy chủ ảo, giúp việc quản lý, san sẻ tài nguyên rẻ hơn, qu ản lý luồng làm việc thích hợp sở hữu nhu cầu, nâng cao hiệu suất làm cho việc của 1 máy chủ vật lý.
Xét về kiến trúc hệ thống, các mô phỏng ảo hóa hệ thống máy chủ sở hữu thể ở 2 dạng sau:
- Host-based: Kiến trúc này sử dụng một lớp hypervisor chạy trên nền móng hệ quản lý, tiêu dùng các dịch vụ được hệ quản lý phân phối để phân chia tài nguyên đến các máy ảo. Ta xem hypervisor này là một lớp phần mềm riêng biệt, do vậy những hệ điều hành khách của máy ảo sẽ nằm trên lớp hypervisor rồi đến hệ điều hành của máy chủ và chung cuộc là hệ thống phần cứng… một số hệ thống hypervisor dạng Hosted với thể nói tới như VMware Server, VMware Workstation, Microsoft Virtual Server…
- Hypervisor-based: hay còn gọi là bare-metal hypervisor. Trong kiến trúc này, lớp phần mềm hypervisor chạy trực tiếp trên nền móng phần cứng của máy chủ, không ưng chuẩn bất kì một hệ quản lý hay một nền tảng nào khác. Qua ấy, các hypervisor này với khả năng điều khiển, kiểm soát phần cứng của máy chủ. Cùng lúc, nó cũng với khả năng điều hành các hệ quản lý chạy trên nó. Nhắc cách thức khác, những hệ điều hành sẽ nằm trên những hypervisor dạng bare-metal rồi tới hệ thống phần cứng. Một số tỉ dụ về những hệ thống Bare-metal hypervisor như là Oracle VM, VMware ESX Server, IBM's POWER Hypervisor, Microsoft's Hyper-V, Citrix XenServer…
>>> Xem thêm: ThinkSystem SR950