Giải mã truyền thuyết 14 chòm sao trong lá số Tử vi
Cryingstar > 10-02-2014, 09:16 AM
Trong Tử Vi Đẩu Số, có 14 chòm sao tối quan trọng đều là các chính diệu của tinh hệ Bắc Đẩu hoặc tinh hệ Nam Đẩu, cộng thêm hai sao Thái Dương và Thái Âm, cấu tạo thành các “tổ hợp tinh hệ” trong tinh bàn. Do đó gọi là 14 chính diệu (chính tinh).
Trong Tử vi, 14 chính tinh chi phối rất mạnh mẽ trên toàn lá số. Nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh là mấu chốt của việc luận đoán. Thông qua việc nắm bắt được ý nghĩa của 14 chòm sao, mỗi chúng ta có thể đọc được cơ bản ý nghĩa của từng cung mệnh trong lá số tử vi.
Xưa nay các sách đều viết rất nhiều, tuy nhiên cũng rất cần tham khảo thêm nhiều quan điểm. Với tinh thần gạn đục khơi trong, Xa Lộ Vạn Sự mong muốn được mang đến cho bạn đọc đặc tính cơ bản của 14 chính diệu. Có được những cơ sở này, mới có thể hiểu rõ ý nghĩa của chúng khi vào 12 cung.
Tên gọi của 14 chính diệu và phân thuộc như sau:
- TỬ VI – tính Thổ
- THAM LANG – tính Mộc
- CỰ MÔN – tính Thổ
- LIÊM TRINH – tính Hỏa
- VŨ KHÚC – tính Kim
- PHÁ QUÂN – tính Thủy
- THIÊN PHỦ - tính Thổ
- THIÊN CƠ – tính Mộc
- THIÊN TƯỚNG – tính Thủy
- THIÊN LƯƠNG – tính Thổ
- THIÊN ĐỒNG – tính thủy
- THẤT SÁT – tính Kim
- THÁI DƯƠNG – tính Hỏa
- THÁI ÂM – tính Thủy
Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu về bộ 4 chính tinh Tử Vi – Thiên Phủ - Vũ Khúc – Thiên Tướng: Bộ sao lãnh đạo.
1. TỬ VI
Tử Vi thuộc âm thổ, là Bắc Đẩu chỉ tinh. Trong 14 chính diệu của Đẩu Số, nó là lãnh đạo của các sao, cho nên cổ nhân gọi là “đế diệu”, ví với hoàng đế.
Do ví với hoàng đế, nên dễ nhớ đặc tính của Tử Vi như sau:
- Có khí quý phái, có tài lãnh đạo, có phong thái của người ra lệnh. Còn tài năng lãnh đọa có hoàn mĩ hay không, mệnh lệnh có chính xác hay không, thì cần phải xem Tử Vi ở cung vị nào, và hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính cát hung ra sao mới định được.
- Có lực điều giải, tức là giỏi khống chế và làm thay đổi. Cho nên Tử Vi có thể kềm chế các sao hung hãm như Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đã La, Địa Không, ĐỊa Kiếp, Hóa Kị. Nhưng lại không tránh được ảnh hưởng của ám tinh Cự Môn. Bởi vì, hoáng đế tuy có thể nhiếp phục quần thần, nhưng lại dễ thích nghe lời sàm tấu. Cự Môn giống như nịnh thần hay sàm tấu, có thể gây ảnh hưởng đến sự biểu hiện của Tử Vi.
- Có lực khắc chế, là nói đối với hai sao Thát Sát, Phá Quân. Phá Quân tuy giống như tướng soái ngoài trận địa, không nhận mệnh lệnh của Quân Vương, nhưng không có Thất Sát làm sao tâu báo với Tử Vi. Nhưng “Tử Vi, Phá Quân” đồng chung, cũng có thể biến lực phá hoại của Phá Quân thành lực khai sang.
- Có lực cạnh tranh, đặc biệt là đối thủ càng mạnh thì đấu chí của Tử Vi càng mạnh. Nếu như hội hợp với các sao có sự trợ giúp cho lực cạnh tranh như Thiên Phủ, Thiên Tướng, Hóa Quyền, HÓa Khoa, thì càng không dễ nhượng bộ, giống như bậc quân vương lấy xã tắc làm trọng.
- Có lòng tự tôn, mà còn có tính cách mạnh mẽ, giống như hoàng đế nhất định phải giữ sự tôn nghiêm của bản thân. Cho nên về tính cách thường có biểu hiện tự cao tự đại, thiện ác tùy tâm. Nếu nó hội chiếu với sát tinh mà không có sao cát, thì dễ kích động theo kiểu thương thì cho sống, ghét thì cho chết. Nhưng khi ở trong nghịch cảnh, Tử Vi lại có thể giấu nỗi khổ trong lòng, không chịu biểu lộ.
Vì Tử Vi là đế diệu, cho nên rất ưa tram quan đứng chầu (bách quan triều cùng), rất kị quần thần xa lánh (tại dã cô quân). Bách quan và quần thần, là chỉ các sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Tam Thai, Bát Tọa, Ân Quang, Thiên Quý, Lộc Tồn, Thiên Mã, Thiên Khôi, Thiên Việt. Tuy Tử Vi cũng ưu Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng, nhưng vẫn không bằng cách cục “Bách quan triều cùng. Cho nên Tử Vi đóng ở cung Mệnh được “bách quan triều củng”, thì có thể đại phú đại quý; còn được “Phủ tướng triều viên” thì chỉ là cách cục không thấp, nếu chỉ mang đặc tính của Tử Vi để phát huy mà thôi thì chưa chắc có thể phú quý.
Nếu không có “trăm quan đứng chầu” mà là “quần thần xa lánh”, giả dụ như ngay cả “Phủ tướng triều viên” cũng không có, thế thì giống như vị vua cô độc nơi hoang dã. Lúc này Tử Vi sẽ có biểu hiện của sự thiếu hòa hợp. Đây là do sự tôn quý của hoàng đế, vì vậy khác với tư tưởng của người thường.
“Tại dã cô quân” lại gặp ĐỊa Không, Địa Kiếp và tứ sát, thì chỉ thích hợp phát huy tư tưởng siêu thoát. Cho nên cổ nhân cho rằng trường hợp này thích hợp làm tăng nhân, đạo sĩ. Nhưng ở thời hiện đại, có thể phát triển thành nhân vật có tư tưởng đặc biệt. Nếu gặp được Tham Lang, Thiên Tài hoặc Liêm Trinh, thì có khả năng là nghệ thuật gia hoặc nhà thiết kế.
Nhưng nếu “tại dã cô quân” gặp các sao Sát, Không, thì trái lại, tư tưởng siêu thoát sẽ không phát huy. Do ảnh hưởng của Thái Âm, sẽ biến thành người hí lộng thủ đoạn, thích giở mánh khóe.
Ngoại trừ “tam phương tứ chính”, Tử Vi còn chịu ảnh hưởng của hai cung ở bên trái và bên phải. Nó rất ưa Tả Phụ, Hữu Bật giáp cung, kế đến là Văn Khúc, Văn Xương giáp cung.
Nếu gặp phải Hỏa Tinh, Linh Tinh giáp cung, hoặc Kình Dương, Đà La giúp cung, thì Tử VI có khả năng trở thành bạo chúa, cũng tức là phát huy toàn bộ tính chất xấu của nó.
2. Thiên Phủ
Thiên Phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, thuộc dương thổ, chủ về hiền năng, là tiền bạc của kho phủ.
Do là chủ tinh nên Thiên Phủ cũng có năng lực lãnh đạo, nhưng tài lãnh đạo này lại theo khuynh hướng thủ thành, thiếu tính khai sang. Đây giống như người giữ kho bạc, nhiệm vụ của ông ta là “quản lí tài chính” chứ không phải “kiếm tiền”, cho nên phải làm việc cẩn thận, khi làm việc thường có biểu hiện tỉ mỉ; chứ không rộng rãi như Tử Vi, cũng không phóng khoáng như Thái Dương. Cùng là chủ tinh nhưng có sự phân biệt, bạn đọc nên chú ý.
Vì vậy, người có Thiên Phủ thủ mệnh, chỉ thích hợp phát triển cục diện sẵn có, thiếu cái nhìn bao quát, cũng không có kiến giải riêng, không có lập trường riêng, có biểu hiện là một chủ quản xứng đáng với chức vụ. Do có tính chất “kho phủ”, nên người có Thiên Phủ thủ mệnh khá “thương tiền”, cẩn thận, vững vàng, luôn cố tìm sự ổn định. “Kho phủ” không có năng lực kiếm tiền, chỉ có thể giữ tiền và sử dụng tiền bạc, do đó Thiên Phủ rất ưa gặp Lộc. Bất kể là hội hợp với Lộc Tồn hay Hóa Lộc, đều có thể làm tăng cách cục chiếm lợi, trở thành giàu có.
Thiên Phủ cũng ưa hội hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn xương, Văn Khúc, như vậy có thể khiến cho người này có kiến giải riêng, đồng thời cũng làm tăng khí thế lãnh đạo của họ.
Thiên Phủ cũng ưa Tả Phụ, Hữu Bật giáp cung, Long Trì, Phượng Cát giáp cung, chủ về người hiền hậu, vững vàng, giỏi giang, cẩn thận, giỏi tính toán, đủ sức đảm nhiệm chức vụ cao.
Người có Thiên Phủ thủ mệnh không ưa gặp Tứ Sát. Nếu không có Lộc mà chỉ gặp tứ sát, thì không thích hợp với tính chất “kho tiền”, khó tránh giở thủ đoạn gian xảo để kiếm tiền.
Giả dụ Thiên Phủ gặp tứ sát, đồng thời còn hôik hợp với Văn Xương, Văn Khúc, có thể là người giàu có thanh nhẫ, bởi vì Văn Xương và Văn Khúc chủ về giỏi văn bút, kiêm giỏi biện luận, tuy hơi xảo quyệt nhưng cũng không mất phong thái là văn nhân nho sĩ.
Nhưng nếu Văn Xương Văn Khúc Hóa Kị, thì đây là tinh hệ “Thiên Phủ gặp sát tinh, hội hợp với Văn Xương Văn Khúc”, kết cấu càng lớn càng giảm sắc, người này dễ trở thành hàn nho, bụng đầy lời oán trách, tự cho mình có tài mà không gặp thời.
Thông thường, Thiên Phủ không nên độc tọa, bởi vì quan giữ kho tiền không nên cô độc, cô độc thì dễ thành người mắt thấy tiền thì lòng mưu mô xảo trá. Cũng không nên gặp sao Không, chủ về sống cô lập, không có cứu viện. Nếu Thiên Phủ độc tọa, gặp sao Không hoặc Thiên Diêu, chủ về người này đầy âm mưu thủ đoạn.
Nữ mệnh Thiên Phủ, thông thường đều chủ về trung hậu, hiền từ, thông minh, khéo léo, thích giúp người. Nếu hội sao Cát, đặc biệt hội hợp với Tả Phụ, Hữu Bật, sẽ có oai nghi của bậc nam tử, cũng có thể gặp phú quý. Gắp các sao tứ sát hình kiếp, thì chồng con bất toàn, hoặc phải tái hôn.
3. Vũ Khúc
Vũ Khúc là sao thứ sáu của Bắc Đẩu, thuộc âm kim, hóa khí làm “tài” (tiền tài).
Về phương diện tính cách, Vũ Khúc chủ về quyết đoán mau lẹ, khuyết điểm của nó là suy nghĩ nông cạn. Người có ó thủ mệnh có thể phát nhanh mà cũng có thể bại nhanh.
Vũ Khúc tính cương, vì vậy không nên có thêm Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng bộ. Nếu gặp chúng, ắt dễ vì xung động nhất thời mà xảy ra tai ách, khi hóa giải nạn tai sẽ phải trả giá rất đắc.
Do tính cương, Vũ Khúc cũng không nên gặp các sao văn (Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa), nếu không sẽ chủ về do dự, thiếu quyết đoán, nhưng bề ngoài thì giống như rất có chủ kiến, dẫn đến xử sự tiến thoái không hợp lí, giống như người có văn tài làm công việc quản lí về quân sự, đương nhiên không thích hợp.
Trong Đẩu Số, Vũ Khúc tuy không phải là chiến tướng giống như Thất Sát và Phá Quân going ruổi nơi sa trường, nhưng xét ở góc độ tính cương thì cũng được vào hàng quan võ, cho nên nói chung cũng chút tính cô độc và hình khắc, không nhu hòa như các sao văn. Võ cương văn nhu là đặc tính cơ bản.
Vũ Khúc ngại Hóa Kị hơn các sao văn, Nếu Hóa Kị sẽ chủ về sự nghiệp thất bại, tiền tài hao tán, gặp sát tinh thì nên bình tĩnh nhẫn nại, nếu không dễ bị sụp đổ. Nhưng Vũ Khúc lại rất ưa Hóa Lộc, chủ về nguồn tiền tài như ngòi suối; nếu lại gặp thêm Lộc Tồn, Thiên Mã thì chủ về phải ở tha hương.
Do tính cương, cô độc và hình khắc, nên cũng bất lợi về hôn nhân, chủ về kết hôn muộn hoặc sinh li tử biệt. Nhẹ thì vợ chồng gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, hoặc vợ chồng không hòa thuận; nặng thì phu thê li tán. Nếu gặp Hóa Kị Hóa Tinh, Cô Thần, Quả Tú, thì phải xem sao hung nhiều ít, và Vũ Khúc ở cung nào, để phán đoán mức độ hôn nhân bất lợi.
Nữ mệnh Vũ Khúc, chủ về vợ đoạt quyền chồng, nhưng cũng chủ về phụ nữ có khí phái của bậc trượng phu. Nếu có các sao Tả Phụ, Hữu Bật, Tam Thai, Bát Tọa hội chiếu, là người phụ nữ tài giỏi; gặp thêm Khoa, Lộc, Quyền và Thiên Hình, thì quyền hành bổng lộc tiếng tăm đều lơn, ắt là người có địa vị cao trong xã hội, nhưng bất lợi về hôn nhân.
Nữ mệnh Vũ Khúc mà rơi vào hãm địa, gặp tứ sát, chủ về hình khắc cô độc; gặp thêm Hóa Kị thì có nguy cơ hung vọng.
Bất kể nam nữ, Vũ Khúc thủ mệnh, có Thiên Khôi, Thiên Việt mà không có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp xung hội hoặc đồng độ, đều chủ về có thể nắm đại quyền về kinh tế, nên làm việc trong giới làm ăn kinh doanh.