Ngô Đức Kế (1878-1929), hiệu là
Tập Xuyên, quê: huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; là chí sĩ, nhà báo yêu nước, thành viên của phong trào Duy Tân, chống lại chế độ thuộc địa của Pháp tại Việt Nam đầu thế kỷ 20, một trong những người tù chính trị đầu tiên bị giam cầm tại Côn Đảo 13 năm, tác giả Luận về chính học cùng tà thuyết, bài hùng biện từng chấn động dư luận cả nước một thời.
Ngô Đức Kế sinh tại quê nhà Trảo Nha, tổng Đoài, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh (nay là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là hậu duệ của danh tướng Ngô Văn Sở, Ngô Cảnh Hựu, Ngô Phúc Vạn, Tiến sĩ Ngô Phúc Lâm thuộc dòng họ Ngô Phúc nhiều đời làm quận công, giữ các chức vụ trọng yếu của các triều Lê - Trịnh và Tây Sơn.
Ông sinh ra trong một gia đình quan lại nhiều đời. Ông nội ông là Ngô Phùng (1805-1863), từng giữ chức Toản tu Sử quán, hàm Quang Lộc tự Thiếu Khanh. Cha ông là Tả tham tri Bộ Lễ Ngô Huệ Liên (1840-1912), về sau cũng giữ chức Toản tu Quốc sử quán. Vì vậy, từ nhỏ ông đã là ấm sinh theo học tại Quốc tử giám. Năm 1901, ông đậu Á khoa thi Đình và nhận danh hiệu tam giáp đồng tiến sĩ khoa Tân Sửu năm Thành Thái thứ 13.
Sau khi đỗ đại khoa, ông không ra làm quan mà liên kết với Lê Văn Huân, Đặng Nguyên Cẩn để hoạt động trong phong trào Duy Tân, lập ra lập Triều Dương Thương Dịch ở Vinh (theo sáng kiến của Phan Bội Châu), buôn bán hàng nội, trợ cấp kinh phí, liên kết các đồng chí cho phong trào Đông du.
Tháng 11 năm 1907, Pháp đã phát động một chiến dịch lớn nhằm đàn áp phong trào Đông du, Ông bị bắt và năm 1908 ông bị đày ra nhà tù Côn Đảo, nơi giam giữ các nhà hoạt động chính trị.
Năm 1921, Ông được thả tự do sau 13 năm tù giam.
Năm 1922, khi vừa mới ra tù ông tiếp tục hoạt động, làm chủ bút (tổng biên tập) báo
Hữu Thanh ở Hà Nội, sáng tác thơ vǎn, xuất bản sách tiến bộ, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân ta. Ông cũng là một trong những người tiên phong ủng hộ dùng chữ quốc ngữ thay thế cho chữ hán nôm vẫn được dùng rộng rãi thời đó.
Ngô Đức Kế đã l[FONT=宋体]à[/FONT] người đầu ti[FONT=宋体]ê[/FONT]n giới thiệu tiểu sử v[FONT=宋体]à[/FONT] học thuyết Đác-uyn tr[FONT=宋体]ê[/FONT]n tạp ch[FONT=宋体]í[/FONT] Hữu Thanh từ cuối năm 1923, sang đầu năm 1924 ông viết b[FONT=宋体]à[/FONT]i
Khảo về học thuyết của hai ông tổ văn minh đời nay giới thiệu hai nh[FONT=宋体]à[/FONT] triết học Bacon (1561-1626) v[FONT=宋体]à[/FONT] Descarts (1596-1650).
Sau khi báo bị đóng cửa, Ngô Đức Kế mở Giác quần thư xã (1926), xuất bản một số sách tiến bộ: "Phan Tây Hồ di thảo" (1927), "Đông Tây vĩ nhân". Bài thơ “Hỏi Gia Long” (1923) có thể nói là táo bạo nhất so với thơ văn đả kích châm biếm đương thời, đối tượng là Khải Định - vị đương kim hoàng thượng. Là người có nhiều uy tín với thanh niên trí thức những năm 20 thế kỉ 20.
Ông qua đời ngày 10 tháng 12 năm 1929.
Tên của ông được đặt cho các con đường ở thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Vinh, thành phố Cần Thơ, thành phố Huế, thị xã Bà Rịa...