Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN - Tam tạng kinh điển PG

Diễn Đàn Tuổi Trẻ Việt Nam Uhm.VN

Phiên bản đầy đủ: Tam tạng kinh điển PG
Bạn đang xem phiên bản rút gọn. Xem phiên bản đầy đủ với định dạng thích hợp.
Toàn bộ hệ thống phật giáo bao gồm 3 tạng: tạng luật, tạng kinh, tạng vi diệu pháp

1. Tạng luật (Vinaya Pitaka)

20 năm đầu tiên trong quá trình thuyết giảng sau khi giác ngộ đức Phật không đặt ra bất cứ giới luật nào. Sau khi số tăng chúng đi theo ngài ngày càng đông, bắt đầu xuất hiện những chuyện thị phi không hay giữa tăng chúng với nhau và giữa tăng chúng với cư dân đức Phật mới bắt đầu đặt ra các giới luật
5 giới luật đầu tiên là: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Theo thời gian, qua các thời đại số giới luật ngày càng tăng thêm, hiện nay số giới luật không đồng nhất giữa các hệ phái, quốc gia.

2. Tạng kinh (Sutta Pitaka): Đây là phần quan trọng nhất trong hệ thống phật giáo

Kinh điển nguyên thủy (Nikaya): Xuất hiện trong các lần kết tập, bao gồm 5 bộ, trong đó có 4 bộ xuất hiện ngay ở lần kết tập đầu tiên là: trường bộ kinh, trung bộ kinh, tương ưng bộ kinh và tăng chi bộ kinh. Đây được xem là những kinh điển chính gốc nhất.
Riêng bộ kinh thứ 5 là tiểu bộ kinh phải đến lần kết tập thứ 2 mới xuất, gọi là tiểu bộ nhưng thật ra đây là bộ kinh nhiều nhất trong 5 bộ kinh nguyên thủy.
Nhiều học giả nghiên cứu cho rằng tiểu bộ kinh là do người đời sau viết, ngụy tạo ra.

Kinh điển bắc truyền: Xuất hiện dần dà, rải rác vào khoảng đầu công nguyên, không rõ nguồn gốc xuất xứ, không biết do ai kết tập, vào thời gian nào. Văn phong không đồng nhất, một số pha trộn giáo lý khác.
Hiện nay các nhà nghiên cứu đều đánh giá rằng kinh điển bắc truyền là do người đời sau sáng tác, ngụy tạo ra.

Phật giáo có mặt ở Việt Nam hơn nghàn năm nhưng do ảnh hưởng từ phật giáo bắc truyền trung quốc nên chỉ biết và sử dụng kinh điển ngụy tạo. Phải đến đầu thế kỷ 20, khi có nhiều điều kiện giao lưu hội nhập, hòa thượng Minh châu mới phiên dịch, truyền bá kinh điển nguyên thủy vào Việt nam.

3. Tạng vi diệu pháp (Abhidhamma Pitaka): Ban đầu nằm trong hệ thống kinh tạng, sau được tách riêng ra.

Vi diệu pháp bao gồm 7 bộ nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thật ra chỉ có bộ Pháp tụ (Dhammasangani) là do đức Phật nói ra, 6 bộ còn lại là do người đời sau viết thêm vào.
Lịch sử truyền bá Phật giáo theo hướng bắc không có tạng vi diệu pháp do đó Phật giáo bắc truyền sử dụng tạng luận do các tổ sư đời sau viết ra để thay vào.

Phật giáo Việt Nam do ảnh hưởng từ phật giáo bắc truyền trung quốc nên không biết đến sự tồn tại của tạng vi diệu pháp. Đến đầu thế kỷ 20 khi điều kiện giao lưu, hội nhập mở rộng hòa thượng tịnh sự đã phiên dịch và truyền bá tạng vi diệu pháp vào Việt Nam.
Kinh điển ngụy tạo

Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHAL – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo bắc truyền ở nhiều khu vực châu Á giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.

Một vài kinh ngụy tạo, đặc biệt của Phật giáo phát triển ở đông á, mạo nhận nó chính là giáo pháp của Đức Phật – Buddhavacana (Word of the Buddha) tức tự mạo nhận KINH (Sutra).
Kinh ngụy tạo đôi khi cũng tự mạo nhận là lời luận giảng về kinh từ một vị thầy có tiếng tăm (hoặc có khi cũng vô danh) của Phật giáo Ấn Độ, tức tự mạo nhận là LUẬN (Sastra).

Một số kinh ngụy tạo tuyên bố xuất phát từ tuệ giác của các đấng giác ngộ ở Ấn Độ hoặc là người được truyền thừa tuệ giác từ một dòng phái chính thức, ví dụ như trường hợp “các bộ Thánh Thư Quí Báu” (Gterma) của Tây Tạng tự cho là đã được dấu kín và rồi được khám phá lại bởi những người đủ cơ duyên.
Một số kinh ngụy tạo được soạn thảo theo văn phong kinh điển kiểu kể chuyện, ví dụ như trường hợp bộ “Tiền thân Đức Phật” (Jataka) của khu vực Đông Nam Á.

Điều này cho ta cái nhìn về mục đích của kinh ngụy tạo: Tích hợp tư liệu Ấn Độ vào những nội dung bản địa – có thể là tôn giáo, văn hóa xã hội, hoặc chính trị – bằng cách ấy nó được mặc nhiên công nhận, thông qua và làm cho tôn giáo địa phương trở thành dễ hiểu đối với con người đương thời của vùng đất mới, nơi Đạo Phật được đưa vào.

Trong bộ sưu tập các kinh giả, phải nói “kinh dị” nhất là các kinh giả của Đạo Phật Đại thừa. Các kinh này mạo nhận cấp bậc cao nhất của truyền thống Ấn Độ bằng cách tự nhận là lời nói của chính Đức Phật. Hiển nhiên khi kinh ngụy tạo mạo nhận là thánh điển, nó không thể không bị phát hiện bởi các nhóm trưởng lão hay tư do trong cộng đồng Phật tử. Trong thời kỳ trung cổ các kinh giả trở thành đối tượng bị khinh bỉ nhưng ngược lại chúng cũng đã trở thành công cụ và lực lượng vật chất làm biến đổi ý nghĩa của Phật giáo.
Kinh ngụy tạo của đạo Phật Trung quốc

Kinh ngụy tạo của đạo Phật Trung Quốc được viết hầu như đồng thời với lúc khởi đầu các hoạt động dịch thuật kinh Phật vào giữa thế kỉ thứ 2 sau công nguyên. Theo ghi chép của Đại Tạng kinh Phật giáo, con số kinh ngụy tạo gia tăng liên tục qua các thế hệ cho đến ít nhất vào thế kỉ thứ tám. Các nhà làm danh mục phê bình kịch liệt các ngụy kinh, theo chuẩn mốc của họ, là “không có nguồn gốc rõ ràng” hoặc “đầy nghi vấn” hoặc lên án các ngụy kinh đã làm sói mòn sự toàn vẹn việc truyền bá kinh điển Phật giáo tại Trung quốc.

Bất kể sự phối hợp của tập thể các nhà soạn danh mục, đồng thời với hội đồng của triều đình cố gắng loại bỏ các ngụy kinh bản xứ, mãi tận đến lúc cho in kinh lần thứ nhất (tại Trung Quốc) tức ấn bản (971-983) thì việc tạo ngụy kinh mới giảm xuống rồi ngưng lại. Sự xuất bản các ngụy thư ở Trung quốc như vậy đã làm nên “hiện tượng” của thời kì gọi là “kinh điển viết dưới dạng bản thảo”. Khi những bản thảo viết tay có nguồn gốc địa phương lại có thể được chấp nhận là kinh và được xếp vào bộ thánh điển, thì giữa ngụy thư và kinh điển đã trở thành một phạm trù mơ hồ (không phân biệt được).

Khám phá của chuyên gia thời hiện đại về các kinh điển ngụy tạo cho thấy tính phức tạp và khó khăn khi xác quyết một văn bản về mức độ giả tạo kiến thức, cũng như khả năng làm nhái các văn bản Phật giáo của tác giả các ngụy kinh. Thật không dễ dàng cho các chuyên gia thư mục xác định được tính chính thống của kinh điển. Phải có kiến thức rất rộng về Phật học mới có thể truy tìm những văn bản ngụy tạo đặc biệt khi chúng được tạo ra bởi những loại người thông hiểu lý thuyết và thực hành trong Phật giáo, nhất là người đó lại có thêm kỉ năng văn chương.

Sự bùng nổ của hiện tượng ngụy kinh tại Trung Quốc cũng đã thúc đẩy cho sự lan rộng kinh điển ngụy tạo tại các vùng khác thuộc Đông Á, mặc dù không nơi đâu lại nhiều bằng tại Trung Quốc.
Sự bùng nổ của hiện tượng ngụy kinh tại Trung Quốc cũng đã thúc đẩy cho sự lan rộng kinh điển ngụy tạo tại các vùng khác thuộc Đông Á, mặc dù không nơi đâu lại nhiều bằng tại Trung Quốc.
caube15cm Đã viết:Sự bùng nổ của hiện tượng ngụy kinh tại Trung Quốc cũng đã thúc đẩy cho sự lan rộng kinh điển ngụy tạo tại các vùng khác thuộc Đông Á, mặc dù không nơi đâu lại nhiều bằng tại Trung Quốc.

Thằng tàu khựa có truyền thống làm hàng giả từ xưa tới nay =))